SƯU TẬP TƯ LIỆU

http://thcsbacson.thainguyen.edu.vn/thu-vien/gioi-thieu-sach-chu-de-mung-dang-mung-xuan-c11608-139530.aspx
BỘ SƯU TẬP HÌNH ĐỘNG
http://tinhaymeotot.com/bo-suu-tap-hinh-anh-dong-trang-tri-blog.html

https://sites.google.com/site/thuvienthcsphongthanhdhong1/trang-chu/tu-lieu/tu-lieu-ve-ho-chi-minh


19. CÁCH MẠNG THÁNG 8 - 1945
Nhan đề : Những hình ảnh lịch sử về Cách Mạng Tháng Tám 1945
Tác giả: Hải Anh
Nơi xuất bản: Báo Đời Sống Và Pháp Luật
Thời gian xuất bản: 19/ 8/ 2014
 Ngày 19/8/1945 đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi của dân tộc, đánh dấu sự thành công của Cách mạng Tháng Tám, mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Sau khi họp nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), trong tình hình hết sức khẩn trương, Đảng quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân đồng minh Anh, Pháp vào nước ta. Từ ngày 14/8, cuộc khởi nghĩa bắt đầu, trong hai ngày 14 và 15/8/1945, nhân dân tại Quảng Ngãi, Hà Tĩnh đã nổi dậy giành chính quyền. Ngày 18/8, chính quyền các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Nam đã về tay nhân dân.

Lệnh tổng khởi nghĩa được phát hành rộng rãi và được toàn thể nhân dân đồng tình hưởng ứng. 

Sáng ngày 19/8, hàng chục vạn nhân dân rầm rập tiến về Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Đúng 11 giờ trưa, cuộc mít tinh bắt đầu.

Cách mạng Tháng Tám với không khí sục sôi tại Hà Nội, thu hút mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước tham gia nổi dậy.



Ngày 19/8/945, cuộc mít tinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm phủ Phủ Khâm sai Bắc Kỳ, trại lính bảo an và các cơ sở của chính phủ bù nhìn. Đánh dấu mốc son lịch sử của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám.

Ngày 25/8/1945, ở Sài Gòn tuần hành chào mừng Cách mạng Tháng Tám thành công.

Ngày 28/8/1945, Đoàn Giải phóng quân ở Việt Bắc về duyệt binh ở quảng trường Nhà hát Lớn.


Duyệt đội quân du kích ở các chiến khu về Hà Nội ngày 30/8/1945.


Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên Ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 


Toàn cảnh lễ đài Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn.


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỉ tại Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa Xã hội.


Nhan đề : Chiến dịch Biên giới 1950: Phá thế bao vây, cô lập của quân Pháp, mở rộng vùng giải phóng
Tác giả: Mai Văn Quang
Nơi xuất bản: Báo Quân Đội Nhân Dân
Thời gian xuất bản: 22/ 10/ 2014
Chiến dịch Biên giới 1950: Phá thế bao vây, cô lập của quân Pháp, mở rộng vùng giải phóng
QĐND - Sau thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Thu Đông 1947, thực dân Pháp đẩy mạnh việc củng cố, mở rộng hành lang Đông - Tây; đồng thời với vùng chiếm đóng ở Trung du, đồng bằng Bắc Bộ, củng cố phòng tuyến biên giới phía Đông Bắc. Tuy nhiên, đến giữa năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến tích cực cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cách mạng Trung Hoa thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cùng với hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra đời. Yêu cầu chiến lược của ta lúc này là phá tan âm mưu phong tỏa biên giới phía Bắc của địch, mở đường giao lưu giữa nước ta với các nước anh em để tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ về vũ khí, trang bị, vật chất của bạn bè quốc tế. Trước tình hình trên, tháng 6 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ đạo Tổng Quân ủy, Tổng Tư lệnh chuẩn bị chiến trường để quyết định mở chiến dịch Biên Giới.
Thực hiện nhiệm vụ Trung ương Đảng giao, ngày 7 tháng 7 năm 1950, Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh mở chiến dịch Biên Giới Cao - Lạng, lấy mật danh là Chiến dịch Lê Hồng Phong. Ngày 27 tháng 7 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy mặt trận và Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Đảng ủy viên chiến dịch gồm các đồng chí: Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng chiến dịch; Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Cung cấp; Lê Liêm - Chủ nhiệm Chính trị và Bùi Quang Tạo. Cùng với đó, các cơ quan giúp việc cho Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch cũng gấp rút được thành lập.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan sát Mặt trận Đông Khê (1950). Ảnh TL
Trước ngày ta nổ súng mở màn chiến dịch, địch chia Liên khu Biên Giới thành hai khu và hai phân khu Cao Bằng và Thất Khê, khu Lạng Sơn, khu An Châu, với tổng số binh lực vừa chiếm đóng và cơ động là 11 tiểu đoàn, 9 đại đội bộ binh, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh, 27 khẩu pháo các loại và 8 máy bay. Lực lượng địch tại biên giới hầu hết là các đơn vị Âu - Phi tinh nhuệ, có truyền thống chiến đấu tại châu Âu. Tại các vị trí chiếm đóng chúng xây dựng thành các cụm cứ điểm với binh lực từ hai đại đội trở lên… Trong các cứ điểm đều xây dựng lô cốt, hầm hào tương đối kiên cố, hỏa lực chi viện được cho nhau.
Ban đầu ta định chọn Cao Bằng là điểm mở màn chiến dịch. Sau khi đi trinh sát thực địa Cao Bằng, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy, Cao Bằng tuy là một thị xã cô lập, đột xuất, nhưng đó là quần thể kiến trúc phức tạp, có hệ thống đồn trại, pháo đài kiên cố do hai tiểu đoàn địch đóng giữ, nếu đánh Cao Bằng “ta chưa có thể nói chắc bảo đảm thắng lợi”. Ngày 16 tháng 8, sau khi cân nhắc, thảo luận, Đảng ủy chiến dịch đi đến quyết nghị một phương án tác chiến mới là đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch; đồng thời, tổ chức tiêu diệt quân ứng cứu cho Đông Khê, sau đó đánh xuống Thất Khê và chỉnh đốn rồi tiếp tục đánh Cao Bằng.

Bộ Chính trị họp bàn kế hoạch thực hiện Chiến dịch Biên giới năm 1950. Ảnh TL
Chiến dịch Biên Giới là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên của Quân đội ta  với khoảng 2/3 lực lượng chủ lực của Bộ, cùng lực lượng chủ lực của Liên Khu Việt Bắc và lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Tổng số lực lượng tham gia chiến dịch tương đương hai đại đoàn, được phân chia làm ba mặt trận:
Mặt trận Đông Khê đánh cụm cứ điểm Đông Khê và quân dù có thể nhảy xuống quanh Đông Khê. Lực lượng tham gia là Trung đoàn 174 (được tăng cường 2 tiểu đoàn), Trung đoàn 209, Trung đoàn 36 Đại đoàn 308, Tiểu đoàn pháo 75mm thiếu.
Mặt trận đánh quân ứng chiếm do Đại đoàn 308 đảm nhiệm, bố trí ở đoạn đường giữa Đông Khê - Thất Khê.
Mặt trận Na Sầm- Lạng Sơn gồm các Tiểu đoàn 428 của Liên khu Việt Bắc, Tiểu đoàn 888 Lạng Sơn có nhiệm vụ phá đường, tiêu hao, quấy rối, phục kích địch trên đoạn đường Thất Khê - Lạng Sơn.
Công tác bảo đảm cho chiến dịch rất lớn. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, trực tiếp chỉ huy bộ máy bảo đảm chiến dịch. Đến trung tuần tháng 9, công tác hậu cần chiến dịch cơ bản hoàn thành với hơn 4.000 tấn lương thực, súng đạn đã được vận chuyển đến những địa điểm thích hợp, bảo đảm đúng ý định của chiến dịch..
Chiến dịch Biên Giới thực tế diễn ra ba đợt: Đợt 1 từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 9 năm 1950: Ta tập trung lực lượng đánh trận then chốt tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê. Đợt hai từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 9 năm 1950: Tiến hành trận then chốt quyết định tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác - tông. Đợt ba từ ngày 09 đến ngày 14 tháng 10 năm 1950: Địch ở Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn rút chạy, ta truy kích địch giải phóng Thất Khê, Na Sầm.

Niềm vui của bộ đội tham gia Chiến dịch Biên giới năm 1950 thắng lợi : Ảnh TL 
Trong chiến dịch này, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo chuẩn bị chiến trường chu đáo, nghiên cứu nắm địch chính xác, xác định đúng phương châm chiến dịch: “đánh điểm diệt viện”, có kế hoạch tác chiến phù hợp. Sau khi ta đánh “điểm” Đông Khê, chia cắt lực lượng địch giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, chúng buộc phải đưa lực lượng “viện” từ Lạng Sơn lên ứng cứu cho lực lượng bị cô lập, chia cắt ở Cao Bằng, tạo điều kiện để ta thực hiện vận động tiến công tổ chức chia cắt, bao vây tiêu diệt từng bộ phận tiến tới tiêu diệt hoàn toàn hai binh đoàn cơ động Lơ Pa-giơ và Sác Tông, đẩy lui binh đoàn Đờ La Bôm đến giải vây.
Kết quả: Sau 29 ngày đêm chiến đấu ta đã đánh và tiêu diệt gần 10 tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 8.296 tên (bắt sống 3.576 tên, có 3.000 là lính Âu - Phi). Thu trên 3.000 tấn vũ khí, phương tiện…
Chiến thắng Biên Giới 1950, không chỉ tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của quân Pháp mà còn giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, khu căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng, nối liền với Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và các nước bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Vòng vây biên giới bị đập tan, hành lang Đông - Tây bị chọc thủng, Kế hoạch Rơ-ve bị sụp đổ; kế hoạch quân sự, chính trị của Pháp cơ bản bị phá sản; làm đảo lộn về chiến lược, chiến thuật của quân đội viễn chinh Pháp, chúng hoảng loạn bố trí lại lực lượng, thay đổi chỉ huy… Đây là thất bại chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp đến lúc bấy giờ.


Nhan đề : Chiến dịch Bình Giã: Nét độc đáo trong nghệ thuật “ tạo thế, khơi ngòi”
Tác giả: Vũ Bình Tuyển
Nơi xuất bản: Quân đội nhân dan
Thời gian xuất bản: 22 / 11 / 2014
Địa chỉ: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/nhung-moc-son-lich-su/chien-dich-binh-gia-net-doc-dao-trong-nghe-thuat-tao-the-khoi-ngoi/332840.html

Chiến dịch Bình Giã: Nét độc đáo trong nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi”
QĐND Online - Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên của bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, góp phần vào việc chuyển hóa tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, tạo ra thế và lực mới để đánh bại Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch Bình Giã không chỉ đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của quân chủ lực miền Nam mà còn góp phần phát triển nghệ thuật chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đầu năm 1964, trên chiến trường miền Nam, phong trào đấu tranh chính trị cùng với hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang địa phương đã làm thất bại một bước quan trọng quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Sài Gòn càng thêm sâu sắc; kế hoạch Xtalây-Taylo phá sản hoàn toàn. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố, từ tháng 3-1964, đế quốc Mỹ thực hiện kế hoạch mới, Kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara, nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Quán triệt tinh thần Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1964- 1965 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, lấy Bình Giã làm điểm quyết chiến của chiến dịch. Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ đêm 2-12-1964 đến ngày 3-1-1965, được chia thành 2 đợt: đợt 1: từ ngày 2 đến 17 tháng 12 năm 1964; đợt 2, từ 27 tháng 12 năm 1964 đến 3 tháng 1 năm 1965.

Một lính Mỹ bò qua ruộng lúa để thoát khỏi tầm bắn của quân Giải phóng. Ảnh tư liệu.
Rạng sáng ngày 2 tháng 12 năm 1964, chiến dịch mở màn, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã sử dụng  Đại đội 445 (bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa) đánh vào “ấp chiến lược” Bình Giã thực hiện mở đầu và “khơi ngòi” chiến dịch. Khi ấp Bình Giã bị tiến công, địch điều Tiểu đoàn 38 biệt động quân đến ứng cứu và đã bị ta đánh thiệt hại nặng. Tuy nhiên, do ta sử dụng lực lượng “khơi ngòi” không phù hợp, nên không chiếm được toàn bộ “ấp chiến lược” Bình Giã; khi địch phản kích, ta không trụ lại được, chưa tạo điều kiện cho lực lượng chủ yếu tiến công tiêu diệt địch ngoài công sự, trận đánh khơi ngòi không đạt yêu cầu đề ra, bộ đội ta phải chuyển ra ngoài khu vực Bình Giã. Đến ngày 7 tháng 12 năm 1964, ta sử dụng Đại đội 445 được phối hợp 1 đại đội của Trung đoàn 761 tiến công ấp Bình Giã lần 2 và điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 761 và 762 tiến công chi khu quân sự Đất Đỏ để kéo địch đến tiếp viện. Trong trận tiến công này ta tiêu diệt được 1 đại đội quân Việt Nam cộng hòa. Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1964, do áp lực của ta ở Bình Giã, Đức Thạnh, Đất Đỏ, địch phải tổ chức cuộc hành quân “Bình Tuy 33”, dùng Chi đoàn thiếp giáp số 3 giải tỏa dọc Đường số 2 lên đến Bình Giã, Đức Thạnh. Khi đoàn xe cơ giới địch từ Đức Thạnh trở về, lọt vào trận địa phục kích của ta, toàn trung đoàn vận động xuất kích, thực hiện chặn đầu, khóa đuôi, chia cắt đội hình địch ra làm hai. Sau khoảng 1 giờ chiến đấu, ta làm chủ trận địa, tiêu diệt gọn Chi đoàn thiết giáp số 3, gồm 14 chiếc M113, diệt trên 100 tên địch, có 9 cố vấn Mỹ, 5 sĩ quan quân đội Sài Gòn, thu nhiều vũ khí trang bị. Đây là lần đầu tiên ở chiến trường miền Đông, ta diệt gọn 1 chi đoàn thiết giáp địch, đánh bại chiến thuật “thiết xa vận” của địch và bước đầu ta đã thành công trong việc điều viện binh của địch tới để tiêu diệt.
Rút kinh nghiệm đợt 1, bước vào đợt 2, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã tập trung toàn bộ lực lượng trên khu vực Bình Giã, Đức Thạnh và Đường số 2 đánh chiếm và trụ lại “ấp chiến lược” Bình Giã, dùng hỏa lực uy hiếp mạnh chi khu quân sự Đức Thạnh, buộc địch phải tiếp viện ứng cứu. Lực lượng còn lại của Trung đoàn 761 bố trí sẵn sàng vận động tiến công tiêu diệt quân địch đến tiếp viện bằng đường bộ hoặc đường không.  Đêm ngày 27 tháng 12, ta tiến công và làm chủ “ấp chiến lược” Bình Giã; ngày 28 tháng 12, địch điều Tiểu đoàn 33 biệt động quân để cứu nguy cho “ấp chiến lược” Bình Giã. Do phán đoán đúng ý định của địch, ta đã bố trí lực lượng phòng không, hạ tại chỗ 12 máy bay lên thẳng, địch không thể đổ quân xuống đông bắc Bình Giã mà buộc phải đổ quân xuống đông nam Bình Giã, vào đúng trận địa phục kích của Trung đoàn 761. Khi Tiểu đoàn 33 biệt động quân vừa đặt chân xuống đất liền bị hỏa lực của ta bắn trùm lên đội hình, các đơn vị đồng loạt xung phong diệt gần hết tiểu đoàn này. Ngày 30-12, Trung đoàn 761 đã bắn rơi máy bay lên thẳng trinh sát có cố vấn Mỹ. Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận định và xác định phương án phục kích diệt địch khi địch đưa lực lượng đến tìm xác cố vấn Mỹ. Chiều ngày 31 tháng 12, khi địch lọt vào trận địa phục kích, bộ đội nhất loạt nổ súng nhanh chóng diệt gọn Tiểu đoàn 4 lính thủy đánh bộ với gần 600 tên, kết thúc thắng lợi trận then chốt thứ 3 của chiến dịch... Sau 7 ngày chiến đấu liên tục, ta giành thắng lợi lớn. Đến ngày 3 tháng 1 năm 1965, Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh kết thúc chiến dịch tiến công Bình Giã.

Trực thăng và bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Ảnh tư liệu.
Thắng lợi của chiến dịch Bình Giã đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về chiến thuật, đặc biệt là nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi” để điều viện binh địch. Việc chọn điểm “khơi ngòi” vào “ấp chiến lược” Bình Giã là một quyết định sáng suốt của Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch, bởi vì “ấp chiến lược” Bình Giã là một vị trí có giá trị cả về quân sự và chính trị; là một mắt xích trong hệ thống phòng thủ phía đông Sài Gòn. “Ấp chiến lược” Bình Giã được chính quyền Sài Gòn coi là ấp “kiểu mẫu”, vì ở đây tập trung phần lớn là gia đình hậu phương của các lực lượng biệt động quân và thủy quân lục chiến của quân đội Việt Nam cộng hòa cùng phần đông giáo dân bị địch lợi dụng chống phá ta. Vì vậy, khi ta đánh ấp Bình Giã, địch sẽ phản ứng ngay bằng cả đường bộ và đường không. Mặt khác, Bộ chỉ huy chiến dịch chọn “ấp chiến lược” Bình Giã phù hợp với trình độ tác chiến của bộ đội chủ lực lúc đó. Nếu như chọn chi khu Xuyên Mộc làm điểm khơi ngòi của chiến dịch thì ta hoàn toàn bất lợi, bởi vì ở đó địch xây dựng công sự vững chắc, mà trình độ đánh công kiên của bộ đội ta còn hạn chế, nên khó chiếm được chi khu để kéo địch ra tiêu diệt. Thực tiễn diễn biến của chiến dịch đúng như nhận định và kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch. Khi “ấp chiến lược” Bình Giã bị tấn công, địch đã vội vã điều quân đến ứng cứu trong thế bị động, lúng túng. Ngược lại, lực lượng ta chủ động chặn đầu, khóa đuôi, bao vây, chia cắt, đánh cả phía trước, phía sau, bên sườn, đánh địch cả trên không, mặt đất tiến tới tiêu diệt gọn từng bộ phận. Ngoài việc tập trung lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu thì Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch đã phát động nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ, giải phóng đất đai.
Chiến dịch Bình Giã tuy nhỏ, với quy mô liên trung đoàn, nhưng có ý nghĩa lớn về chiến lược và nghệ thuật chiến dịch, có nghệ thuật đặc trưng, đó là nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi”, một cách đánh độc đáo và sáng tạo của quân chủ lực miền Nam. Thắng lợi của chiến dịch đã để lại những kinh nghiệm vô cùng quý báu cho chiến dịch sau này trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.





Nhan đề : Đại thắng mùa xuân 1975 – Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam
Tác giả: Điện tử Cao Bằng
Nơi xuất bản: Điện tử Cao Bằng
Thời gian xuất bản: 1/12/2014
Địa chỉ: http://www.caobang.gov.vn/content/%C4%91%E1%BA%A1i-th%E1%BA%AFng-m%C3%B9a-xu%C3%A2n-1975-%C4%91%E1%BB%89nh-cao-c%E1%BB%A7a-ngh%E1%BB%87-thu%E1%BA%ADt-qu%C3%A2n-s%E1%BB%B1-vi%E1%BB%87t-nam

 

ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 - ĐỈNH CAO CỦA NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM

Cách đây 39 năm, với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi oanh liệt đó đã tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hiệp định Pari được ký kết, nhưng với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Nắm được âm mưu của địch, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975 đã kịp thời đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch trong tình hình mới, chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết tâm chiến lược, giải phóng miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là đỉnh cao của sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công để đánh bại và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất. Qua đó, thể hiện nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và tài thao lược quân sự sắc bén, sáng tạo, táo bạo và đúng đắn của Đảng ta. Sự kết hợp giữa tiến công quân sự của bộ đội chủ lực và nổi dậy của quần chúng được thực hiện hết sức chặt chẽ, hiệu quả trong suốt cuộc Tổng tiến công. Những đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bằng một loạt trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh thẳng vào các thành thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự lớn của địch, tiêu diệt, làm tan rã lực lượng lớn và gây cho chúng hoang mang tột độ đã tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở địa phương, cơ sở để giành quyền làm chủ. Mặt khác, sự nổi dậy mạnh mẽ của lực lượng quần chúng đông đảo trên nhiều địa bàn từ nông thôn đến thành thị, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt đã tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực cả về thế, lực và điều kiện để nhanh chóng đập tan sự kháng cự của địch; đồng thời, để tập trung lực lượng vào những mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công.
Ngày 4/3/1975, bộ đội ta mở Chiến dịch Tây Nguyên - mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ngày 10 và 11/3/1975, quân ta tiến công, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, từ ngày 14/3 - 3/4/1975, quân ta tiến công, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên. Ngày 5/3/1975, quân ta mở chiến dịch Trị - Thiên - Huế, giải phóng tỉnh Quảng Trị (19/3); từ ngày 21 - 25/3/1975, quân ta tiến công, giải phóng thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, tiêu diệt và làm tan dã toàn bộ quân địch trên chiến trường Trị - Thiên.
Từ ngày 26 - 29/3/1975, quân ta mở chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An (29/3), làm thay đổi hẳn cục diện và so sánh thế trận lực lượng ngày càng có lợi cho ta. Ngày 1/4/1975, giải phóng Bình Định, Phú Yên. Ngày 3/4/1975, giải phóng Khánh Hoà nối liền vùng giải phóng từ Tây Nguyên, Trị Thiên và các tỉnh Trung Bộ.
Trên cơ sở những thắng lợi quyết định, ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày 26/4/1975, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công đồng loạt vào các mục tiêu, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Ngày 29/4/1975, quân ta tiến công tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn chủ lực số 5, 7, 25, 18 và 22 của quân đội Sài Gòn. Các binh đoàn thọc sâu tiến vào cách trung tâm thành phố Sài Gòn từ 10 - 20 km. Đại sứ Mỹ và các nhân viên quân sự, binh lính cuối cùng của Mỹ lên máy bay trực thăng rút khỏi Sài Gòn (sáng 30/4). 5 giờ ngày 30/4/1975, quân ta mở đợt tiến công cuối cùng. Vào lúc 10 giờ 45 phút, phân đội xe tăng thọc sâu của Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập. Quân ta bắt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Trong 2 ngày 30/4 và 1/5, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các Quân khu 8 và 9 nắm thời cơ, phát động quần chúng nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ địch, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, vùng biển và các đảo ở Tây Nam của Tổ quốc. Hơn một triệu quân đội Sài Gòn và cả bộ máy chính quyền địch bị đập tan, chế độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng trong hơn 20 năm với 5 đời tổng thống đã hoàn toàn sụp đổ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dạy mùa Xuân 1975 toàn thắng.
Có thể khẳng định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam với những nội dung chủ yếu là: nghệ thuật lựa chọn hướng, mục tiêu tiến công đúng đắn, thời cơ tiến công thích hợp; nghệ thuật tổ chức xây dựng lực lượng và cơ động, tập trung lực lượng kịp thời; nghệ thuật xác định phương pháp tác chiến (cách đánh), hình thức tác chiến phù hợp; nghệ thuật lợi dụng, khai thác triệt để sai lầm của địch, hạn chế điểm mạnh, khoét sâu điểm yếu của chúng; thực hành tiến công mãnh liệt, thần tốc, táo bạo, bất ngờ để tiêu diệt từng bộ phận lớn quân địch, tiến tới tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch.
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Nhan đề : Diễn biến chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ
Tác giả: Phan Dương
Nơi xuất bản: vnexprees.net
Thời gian xuất bản: 2/ 5/ 2014
Diễn biến chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ
Khi xây dựng Điện Biên Phủ thành cứ điểm mạnh nhất Đông Dương 60 năm trước, thực dân Pháp tin chắc lòng chảo này sẽ nghiền nát Việt Minh. Nhưng quân đội Việt Minh, từ thế yếu đánh thế mạnh, giành chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.



Cuối năm 1953, Pháp sa lầy vào trên chiến trường Đông Dương. Để tìm giải pháp đàm phán ưu thế, Henri Navarre được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Ngày 20/11/1953, Pháp bắt đầu nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, và xây dựng nơi đây thành pháo đài bất khả xâm phạm.


Lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ tinh nhuệ và được trang bị vũ khí tối tân với hệ thống phòng ngự liên hoàn. Có 2 sân bay là Mường Thanh và Hồng Cúm.


Tại Điện Biên Phủ, Pháp còn nhận được sự hỗ trợ rất lớn của Mỹ về hậu cần và vũ khí. Trong ảnh, máy bay vận tải hạng nặng C119 của Mỹ chuẩn bị cất cánh chở hàng giúp Pháp.


Có 16.000 quân Pháp tại đây, được bố trí ở 3 phân khu. Phân khu Bắc gồm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Phân khu trung tâm gồm các cao điểm phía Đông, sân bay Mường Thanh, và các cứ điểm phía tây Mường Thanh. Phân khu Nam gồm cụm cứ điểm và sân bay Hồng Cúm.


Với quân đông, hỏa lực mạnh, hệ thống công sự vật cản vững chắc, quân lương đầy đủ, người Pháp cho rằng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thực sự là "pháo đài khổng lồ không thể công phá". Pháp tin Việt Minh với cách đánh truyền thống, khó khăn vũ khí và nhất là hậu cần sẽ dễ dàng sa lưới. Vì thế, ngay từ đầu năm 1954, Pháp cho máy bay rải tuyền đơn thách thức Việt Minh tấn công.


Về phía Đảng Lao Động Việt Nam, dù thấy trước nhiều khó khăn nhưng xác định Điện Biên Phủ là cơ hội lớn sẽ tạo nên bước ngoặt chiến lược, từ đó chấm dứt cuộc kháng chiến trường kỳ.


Quân đội Việt Nam tham gia chiến dịch tuy nhiều hơn quân Pháp, song về hỏa lực và phương tiện chiến tranh thì quân Pháp có ưu thế. Mặt khác, Pháp được bảo vệ trong hệ thống công sự trận địa vững chắc. Nếu không có phương án tác chiến đúng đắn thì khó có thể thắng địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Trận này rất quan trọng phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh".


Ngày 14/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra phương án "đánh nhanh, giải quyết nhanh" và dự định ngày nổ súng là 20/1. Phương án này đặt kế hoạch tiêu diệt Điện Biên Phủ trong 3 ngày đêm bằng những đợt tiến công ồ ạt. Song một đơn vị đại bác vào trận địa chậm và kế hoạch bị lộ nên lịch tấn công dời đến ngày 26/1. Ngày đêm 25/1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã suy nghĩ và đưa ra "quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân", chuyển từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh", sang "đánh chắc, tiến chắc", đánh dài ngày theo kiểu bóc vỏ từng cứ điểm đối phương.


Để khắc phục vấn đề hậu cần, Đảng Lao động Việt Nam đã huy động tối đa sức người, sức của. Dân quân tham gia chiến dịch lên đến 260.000, cao gấp nhiều lần bộ đội chiến đấu. Tính tổng cả chiến dịch đã huy động tới 12 triệu ngày công. Trong ảnh, công an bảo vệ dân quân mở đường cho chiến dịch Điện Biên Phủ.


Bên cạnh xe cơ giới, chiến dịch Điện Biên Phủ đã huy động hơn 20 nghìn chiếc xe đạp thồ tham gia vận chuyển hàng hóa, vũ khí. Ban đầu, một xe chỉ chở được 100 kg, nhưng sau cải tiến thêm tay ngai, quấn lốp, mỗi xe chở được trên 200 kg, có xe 300 kg. Xe của chiến sĩ Ma Văn Thắng, quê Phú Thọ chở được 352 kg, đạt kỷ lục trong chiến dịch Điện Biên Phủ.


Đường vận chuyển trên sông Nậm Na cũng được khai thông. Dân công đã đóng được 11.600 bè gỗ, tổ chức vận chuyển được 1.700 tấn gạo. Để chống chọi với thời tiết núi rừng khắc nghiệt, các đơn vị bộ đội tổ chức ăn sạch, ở sạch, dựng bếp Hoàng Cầm, tăng gia sản xuất. Vì thế trong chiến dịch sức khỏe bộ đội tốt, không có dịch bệnh xảy ra.


Hơn hết, Pháp không ngờ Việt Nam đã gỡ lựu pháo 105 mm và pháo cao xạ 37 mm, dùng sức người kéo vào lòng chảo Điện Biên Phủ. Quân đội Việt Minh cũng xây dựng được hệ thống giao thông hào chằng chịt hơn 400 km, và ngày càng khép chặt vòng vây quân Pháp. Để đem đến quyết định thắng lợi trên đồi A1, quân đội Việt Nam đã gỡ mìn, lấy thuốc nổ, chuẩn bị khối bộc phá 1000 kg.


17h30 ngày 13/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Đợt 1 từ13/3 đến 17/3, ViệtMinh tấn công vào phân khu Bắc. Sau 5 ngày đã làm chủ Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Chiến thắng này mở rộng cánh cửa phía bắc Điện  Biên Phủ và khích lệ tinh thần chiến sĩ.


Đợt 2 của chiến dịch bắt đầu từ ngày 30/3 đến 30/4, tiến công vào tập đoàn cứ điểm phía Đông, gồm các ngọn đồi C1, E, D, A1. Trong đợt tiến công lần 2, một thời gian biểu mới được áp dụng cho bộ đội là ngủ ngày, đánh suốt đêm. Việt Minh dùng chiến thuật vây lấn bằng hệ thống giao thông hào dần bao vây, siết chặt, đào hào cắt ngang cả sân bay, vào tận chân lô cốt cố thủ của địch.


Đây là đợt tiến công gay go, quyết liệt, hai bên giành nhau từng tấc đất, giao thông hào. Cả hai bên đều bị thiệt hại lớn. Sau một tháng chiến đấu, Việt Minh làm chủ nhiều cứ điểm, pháo cao xạ 37 mm của Việt Minh ngày càng tiến sâu vào trận địa.


Quân Pháp ngày càng thất thế trên chiến trường Điện Biên Phủ, phải chờ tiếp viện của Mỹ. Mỗi ngày quân Pháp ở đây cần 295 tấn hàng các loại nhưng chỉ máy bay chỉ tiếp viện tối đa 175 tấn, nhưng 15% số này rơi vào vùng chiếm đóng của Việt Minh. Đói khát, mùa mưa, hầm hào lầy lội, quân lính chết không chỗ chôn, sức khỏe kém, bệnh dịch...tình cảnh quân Pháp khó khăn đến cùng cực.


Thừa thắng xông lên, quân đội Việt Nam mở đợt tấn công lần 3, từ ngày 1/5 đến 7/5, Việt Minh đánh chiếm các cứ điểm còn lại. Riêng đồi A1, cứ điểm được xây dựng kiên cố nhất đã tiến hành tới 4 đợt tiến công nhưng chỉ chiếm được nửa quả đồi. Đêm 6/5, quân đội Việt Nam phải dùng thuốc nổ bí mật phá sập hệ thống hầm ngầm, chiếm được quả đồi.


17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries.


Tướng De Castries và toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Sau này De Castries - người từng theo học Trường Quân sự Saint Cyr nổi tiếng thế giới - đã thốt lên rằng: "Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là không biết Tướng Võ Nguyên Giáp đã tốt nghiệp từ những trường, học viện võ bị cao cấp nào".


Toàn bộ 16.000 lính Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoặc bắt sau khi kết thúc chiến dịch.


Sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, ngày 8/5/1954, Hội nghị Geneva bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương.


Đại diện cho Tổng tư lệnh quân đội Việt Nam, ông Tạ Quang Bửu, ký hiệp định đình chiến năm 1954.


Thiếu tướng Delteil thay mặt Bộ Tổng tư lệnh Quân đội liên hiệp Pháp ở Đông Dương ký bản hiệp định đình chiến ở Việt Nam và Lào ở Hội nghị Geneva.


Sau hội nghị này, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam và chấm dứt chế độ thực dân ở các nước này. Các nhà phân tích cho rằng có nhiều nguyên nhân làm nên thắng lợi lịch sử ở Điện Biên Phủ, và chắc chắn trong đó có sự khinh địch của liên quân Pháp - Mỹ. Việt Nam đã làm nên chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" chính từ trong thế yếu ấy

Nhan đề : Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 qua ảnh
Tác giả: Thu Thủy
Nơi xuất bản: An ninh tiền tệ và truyền thông
Thời gian xuất bản: 21/ 12/ 2014
Địa chỉ: http://antt.vn/chien-dich-dien-bien-phu-tren-khong-nam-1972-qua-anh-015519.html

Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 qua ảnh


ANTT.VN – Trong chiến dịch 12 ngày đêm, quân và dân Hà Nội đã hạ gục nhiều máy bay B52 của Mỹ và giành thắng lợi. Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” được ví như một mốc son của chàng tí hon đánh bại người khổng lồ.

Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không
Tháng 10/1972, theo thỏa thuận, lẽ ra giữa Việt Nam và Mỹ ra thỏa thuận chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ đã bội ước, đưa máy bay chiến lược B52 đến ném bom thủ đô Hà Nội và Hải Phòng. Tổng thống Nickson có kế hoạch dùng sức mạnh máy bay B52, con át chủ bài của không lực Hoa Kỳ “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, hòng buộc phía Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện áp đặt của họ.
18/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược vào miền Bắc Việt Nam với tên gọi “Chiến dịch Linebacker II”. Các pháo đài bay B52 mang hàng ngàn tấn bom bắn phá cùng sự hỗ trợ của 5 tàu sân bay mở cuộc tấn công.

Siêu pháo đài bay B52 của quân đội Mỹ

Ngay đêm đầu của Chiến dịch lập kích đường không chiến lược, không quân Mỹ đã ồ ạt dội bom xuống các sân bay của ta trên miền Bắc và nhiều khu vực của Hà Nội. Trong chiến dịch 12 ngày đêm không quân Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B-52 đánh phá miền Bắc

Những hố bom trên mặt đất do B52 rải thảm
Trong 12 ngày đêm, từ 18/12 đến 29/12/2072, toàn bộ lực lượng 200 máy bay B52 của Mỹ ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á đã không kích Hà Nội gây nên những thiệt hại nặng nề cho nhân dân thủ đô tại bệnh viện Bạch Mai, phố Khâm Thiên, làng hoa Ngọc Hà… Nhưng Hà Nội không khuất phục, kiên cường chống trả sức. Quân và dân Hà Nội đã hạ gục nhiều máy bay B52 của Mỹ và giành thắng lợi.

B52 bị thiêu cháy ngay trong đêm đầu chiến dịch

Xác máy bay B52

Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng kéo dài 12 ngày, đêm đã bị thất bại hoàn toàn.



Phi công Mỹ bị quân ta bắt sống
Trong 12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 và 42 máy bay chiến thuật khác.
Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không", đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt trong suốt 8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đây là cuộc đọ sức quyết liệt nhất từ trước tới nay. Nghệ thuật tác chiến phòng không hiệp đồng chiến đấu, quân binh chủng của bộ đội ta đã chứng tỏ sức mạnh tổng hợp của lực lượng phòng không ba thứ quân mà nòng cốt là bộ đội Phòng không - Không quân. 
Ký ức đau thương
2h38 ngày 22/12, bệnh viện Bạch Mai, trung tâm y tế lớn nhất miền Bắc, cũng bị B52 Mỹ dội bom. Tòa nhà chính của bệnh viện đổ sập, đè lên những căn hầm, trong đó có rất nhiều bệnh nhân và nhân viên y tế đang ẩn nấp.Trong sân bệnh viện Bạch Mai có tấm bia mang chữ "Căm thù" để ghi nhớ về thời bom đạn này.


Đêm 26/12/1972, 30 máy bay B52 ném bom rải thảm xuống đường phố Khâm Thiên, con phố đông đúc của trung tâm thành phố. Cả 17 khối phố bị thiệt hại, trong đó khối 44 đến 47 hầu như bị hủy diệt hoàn toàn. Nhà trẻ, mẫu giáo, cửa hàng lương thực, thực phẩm, đình Tương Thuận, di tích lịch sử, rạp hát, nhiều cơ sở sản xuất cùng hàng nghìn nhà dân bị sập đổ.


Phố Khâm Thiên sau trận rải thảm B52 của Mỹ
Trận bom ấy đã làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em, làm cho 178 cháu trở thành mồ côi và 290 người bị thương. Ngôi nhà số 51 phố Khâm Thiên chi còn là một hố bom, bảy người sống trong ngôi nhà này không còn ai sống sót. Mảnh đất này trở thành một đài tưởng niệm với một tấm bia mang dòng chữ “Khâm Thiên khắc sâu căm thù giặc Mỹ” và một bức tượng bằng đồng tạc hình một phụ nữ bế trên tay một đứa trẻ đã chết vì bom Mỹ.

Tượng đài tưởng niệm những nạn nhân bom B52 ở phố Khâm Thiên


Nhan đề : Giải bí mật tình báo trong trận Ấp Bắc
Tác giả: Trần Vũ
Nơi xuất bản: Người đưa tin
Thời gian xuất bản: 5/ 11/ 2014
Địa chỉ: http://www.nguoiduatin.vn/giai-bi-mat-tinh-bao-trong-tran-ap-bac-a160863.html

Giải bí mật tình báo trong trận Ấp Bắc

Với trận Ấp Bắc, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ đứng trên bờ vực phá sản nhưng phải nhiều năm sau Mỹ mới lý giải được vì sao những phương thức chiến tranh hiện đại của họ lại nhanh chóng bị đối phương vô hiệu hóa.

Giữa năm 1961, người Mỹ bắt đầu đưa vào thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam. Nội dung chính của chiến lược này được gói gọn vào công thức: cố vấn và vũ khí Mỹ cộng với quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH).
Để thực hiện chiến lược, Mỹ đã trang bị cho VNCH nhiều xe tăng, máy bay và các vũ khí khác để tăng sức cơ động và hỏa lực. Cố vấn Mỹ được triển khai đến từng đại đội bộ binh.
   

Chiến thuật trực thăng vận được quân Mỹ và VNCH sử dụng phổ biến trong suốt cuộc chiến ở Việt Nam. Ảnh minh họa.

Với tiền đầu tư của Mỹ, quân đội VNCH tăng lên hơn 300.000 trong đó có 200.000 là quân chủ lực cơ động. Một số lượng đáng kể máy bay và xe tăng, thiết giáp cũng được Mỹ chuyển giao cho VNCH.
Với lực lượng đông lại được nhiều vũ khí hiện đại hỗ trợ, trong năm 1962, quân đội VNCH đã triển khai gần 4000 cuộc hành quân càn quét để phục vụ cho chương trình ấp chiến lược và gây nhiều bối rối cho Quân Giải phóng. Tuy nhiên, trận đánh ở Ấp Bắc đã tạo ra một bước ngoặt trong cuộc đối đầu chiến thuật giữa hai bên.
Trận Ấp Bắc
Theo Wikipedia, ngày 8/1/1963, quân đội VNCH được lệnh hành quân tấn công vào Ấp Bắc – một địa điểm ở tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang) cách Sài Gòn 65 km về phía tây nam. Còn theo cuốn Điệp viên hoàn hảo thì trận đánh diễn ra vào ngày 28/12/1962. Lúc đó Sư đoàn 7 quân đội VNCH đóng quân tại đồng bằng sông Cửu Long nhận được chỉ thị phải lùng bắt một điện đài của các lực lượng Quân Giải phóng đang hoạt động gần làng Ấp Bắc.Tin tình báo cũng nói đài này đang được một đơn vị du kích với khoảng 120 người canh gác bảo vệ đêm ngày.
John Paul Vann lúc đó là cố vấn cao cấp cho Sư đoàn 7 rất hứng thú với thông tin này bởi ông ta đang nóng lòng muốn có một trận giao chiến với lực lượng cách mạng để xem thực lực đối phương cũng như khả năng của quân đội VNCH sau khi tiếp thu các chiến thuật của Mỹ.
Phía VNCH đã huy động vào trận đánh 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 7 cùng 2 tiểu đoàn bảo an và 1 chi đoàn thiết giáp gồm 13 xe M-113 và 3 đại đội bộ binh. Ngoài ra còn có 8 máy bay tiêm kích, 20 trực thăng đổ quân và vũ trang, 11 máy bay quan sát và vận tải, 13 tàu xuồng các loại và 1 tiểu đoàn pháo binh. Tổng quân số phía VNCH có gần 1800 người do cố vấn Mỹ chỉ huy.
Về phía Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng có 2 đại đội bộ binh và khoảng 30 du kích Ấp Bắc với hỏa lực chi viện là 1 khẩu súng cối 60mm.
Diễn biến trận đánh được cuốn Điệp viên hoàn hảo mô tả như sau: Ngay sau khi trận đánh mở màn, phía quân đội VNCH nhanh chóng bị thương vong, buộc các chỉ huy phải gọi thêm quân tiếp viện từ căn cứ Tân Hiệp gần đó. Mười chiếc máy bay trực thăng Shawnee và năm chiếc máy bay trực thăng kiểu mới Huey, biệt danh là súng ngắn bay, được huy động nhằm thẳng hướng Ấp Bắc bay tới.
Khi những chiếc trực thăng này tiến vào Ấp Bắc, bẫy đã được giăng chờ sẵn. Bất ngờ, hàng loạt đạn từ dưới những rặng cây ven đê bắn lên ào ạt. Chỉ trong mấy phút đầu, mười bốn trong số mười lăm chiếc trực thăng bị trúng đạn và bốn chiếc bị rơi trong đó có một chiếc Huey và ba lính Mỹ bị thiệt mạng. Phía VNCH vẫn còn cơ hội để thay đổi thế trận vì Quân Giải phóng đã bị bao vây. Phía Quân Giải phóng chỉ còn mỗi một đường thoát ra hướng Đông, đó là cánh đồng lúa.
John Paul Vann bèn gọi thêm xe bọc thép đến tiếp viện, nhưng Ngô Đình Diệm đã ra lệnh tại chỗ rằng không ai được vào trận đánh đó, nếu không có sự chấp thuận trực tiếp của Sài Gòn. Ngô Đình Diệm còn chỉ thị cho các tướng lĩnh chỉ huy các Quân đoàn, Sư đoàn phải giữ được thương vong luôn ở mức thấp.
Tất cả những ai không tuân theo chỉ thị này sẽ không được đề bạt. Chiếc máy bay trực thăng thứ năm bị bắn rơi ở Ấp Bắc là chiếc bị trúng đạn khi đang cố gắng cứu hộ. Chỉ huy của quân đội VNCH tại trận Ấp Bắc đã không tuân theo chỉ thị của cố vấn Mỹ John Paul Vann trong việc chặn đường rút của Quân Giải phóng. Cuối cùng, khi màn đêm buông xuống, toàn bộ Quân Giải phóng đã rút hết ra ngoài”.
   

Nhà báo Phạm Xuân Ẩn trong một chuyến đi theo tướng Mỹ thị sát chiến trường. Ông Ẩn là người ngậm thuốc lá và đang ghi chép.

Theo Wikipedia, trong suốt 1 ngày chiến đấu, lực lượng Quân Giải phóng đã đẩy lùi 5 đợt tiến công với chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận và thậm chí cả nhảy dù đường không của đối phương. Kết quả trận đánh là gần 200 lính VNCH thương vong trong đó có 3 người Mỹ bị giết và 16 người khác bị thương. Phía Quân Giải phóng chỉ có 18 người hy sinh. Điều này cũng được nhà báo Mỹ Neil Sheehan xác nhận trong một bài báo của ông: “Với vũ khí hạng nhẹ, Việt Cộng đã gây gấp 4 lần thiệt hại cho họ, giết được khoảng 80 lính Sài Gòn, làm bị thương hơn 100, ba người Mỹ chết và 8 người khác bị thương, 5 chiếc trực thăng bị bắn hạ”.
Sau trận đánh, mặc dù quân đội VNCH thiệt hại nhiều nhưng vẫn tuyên bố chiến thắng vì họ lý giải mục đích của họ là tiêu diệt cái điện đài thì họ đã làm được. Nhưng xét về ý nghĩa chiến lược thì trận đánh chứng tỏ quân đội VNCH mặc dù được trang bị vũ khí tốt hơn và sử dụng chiến thuật hiện đại, tinh vi nhưng vẫn chưa đủ sức để đối đầu với Quân Giải phóng. Điều đó cũng có nghĩa là toàn bộ chiến lược chiến tranh đặc biệt với công thức vũ khí và cố vấn Mỹ cộng với quân đội VNCH đã bước tới bờ vực phá sản.
Vai trò quan trọng của Phạm Xuân Ẩn
Sau trận Ấp Bắc rất lâu, đến tận khi cuộc chiến đã kết thúc, người ta mới biết rằng trong trận Ấp Bắc có 2 người được thưởng huân chương là người chỉ huy trận đánh và Phạm Xuân Ẩn – vị tướng tình báo huyền thoại của Việt Nam. Ông Phạm Xuân Ẩn đã có vai trò như thế nào?
Trong cuốn sách Điệp viên hoàn hảo, ông tiết lộ với tác giả cuốn sách rằng chính ông là người đã cung cấp các tài liệu để Quân Giải phóng năm được thủ đoạn chiến tranh đặc biệt của Mỹ và từ đó mà đề ra được chiến thuật đối phó. Ông nói: “Tôi gửi cho họ những phân tích của mình, người khác quyết định phương thức và địa điểm để tổ chức trận đánh”.
Thật vậy, nhờ những tài liệu mà ông Ẩn gửi ra, quân ta đã nghiên cứu và đề ra cách đối phó với chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận của Mỹ.
Trước trận Ấp Bắc vài tuần, Quân Giải phóng đã tổ chức một cuộc diễn tập ở Đồng Tháp Mười với các mô hình trực thăng của Mỹ được tạo bằng bìa cứng gắn trên cột bằng tre ở nhiều tư thế bay khác nhau để tính toán tầm bắn hiệu quả và cách bắn. Kết quả của quá trình luyện tập đó đã được thể hiện trong trận Ấp Bắc ngay sau đó với 5 trực thăng Mỹ bị bắn rụng.
Đánh giá về vai trò của Phạm Xuân Ẩn với chiến thắng Ấp Bắc, ông Mười Nho, một chỉ huy trực tiếp của ông Ẩn nói rằng trong năm 1962, Phạm Xuân Ẩn đã gửi ra chiến khu 24 cuộn phim về toàn bộ các kế hoạch liên quan đến chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Ông Mười Nho khẳng định: “Sự hiểu biết về kẻ thù mà những tài liệu này cung cấp đã giúp cho chúng tôi chuẩn bị các kế hoạch đối phó với chiến lược của kẻ thù… Sự thất bại hoàn toàn của địch trong trận Ấp Bắc đã buộc Mỹ phải từ bỏ Chiến tranh đặc biệt để đi tìm kiếm một chiến lược mới”

Nhan đề : Kháng chiến chống quân Tống lần 1 thắng lợi
Tác giả: Nguyễn Thúy
Nơi xuất bản: Bảo tàng lịch sử Quốc gia
Thời gian xuất bản: 12/3/2014
Địa chỉ: http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Theo-dong-lich-su/2014/03/3A923E26/
Mùa xuân năm 981 – Kháng chiến chống quân Tống lần 1 thắng lợi

Năm 970, sau khi ổn định việc xây dựng triều đình mới, Đinh Bộ Lĩnh cử sứ bộ sang nhà Tống giao hảo. Các năm 972, 973, vua Đinh lại cử Đinh Liễn làm Chánh sứ sang Tống cầu phong. Vua Tống đã sai sứ sang phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận vương và phong Đinh Liễn làm Tĩnh hải Tiết độ sứ, An Nam đô hộ.


Quan hệ Việt- Tống diễn ra tốt đẹp. Cuối năm 979, hai cha con Đinh Bộ Lĩnh- Đinh Liễn bị ám sát. Nội bộ triều đình lục đục, vua mới còn nhỏ. Nhà Tống nhân tình hình mâu thuẫn trong nội bộ vương triều Đinh, ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt, nhà Tống vội vàng chuẩn bị đem quân sang xâm lược nước ta. Trước tình hình đó, triều đình đã tôn Lê Hoàn làm vua, Dương thái hậu đã “lấy áo long cổn khoác lên mình Lê Hoàn, xin lên ngôi” (Việt sử lược).

 Hoàng đế Lê Đại Hành (980-1005).
Lê Hoàn sinh năm Tân Sửu (941) tại làng Trung Lập, Châu Ái (nay làng này thuộc Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Thuở nhỏ, vì gia đình nghèo, Lê Hoàn đi ở và làm con nuôi. Sau đó, ông theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn Mười hai sứ quân. Nhờ có tài, lại được Đinh Bộ Lĩnh tin tưởng, ông thăng tiến rất nhanh. Dưới triều Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn giữ chức Thập Đạo Tướng quân, tức là chức võ quan cao nhất lúc bấy giờ.
Lê Hoàn lên ngôi, xưng Hoàng đế (năm 980) lập ra nhà Tiền Lê và xây dựng chính quyền mới theo thể chế quân chủ. Đứng đầu nhà nước là Hoàng đế nắm toàn bộ quyền hành. Tổ chức nhà nước thời Lê Hoàn so với thời Khúc, Ngô, Đinh từng bước được kiện toàn nhất là ở triều đình trung ương, trở thành một chính quyền độc lập tự chủ, thể hiện chủ quyền quốc gia của dân tộc ta bấy giờ.
Mùa thu năm 980, lợi dụng tình hình nước ta có khó khăn, nhà Tống một mặt điều động một đạo quân do tướng Hầu Nhân Bảo cầm đầu kéo vào xâm lược nước ta, mặt khác sai Lư Đa Tốn đưa thư sang đe dọa.
Lê Hoàn đã huy động nhân dân chuẩn bị kháng chiến. Mùa xuân năm 981, quân xâm lược do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ chỉ huy ồ ạt kéo vào Lạng Sơn, đồng thời một cánh quân khác do Lưu Trừng, Giả Thực chỉ huy theo đường thủy tiến vào phía cửa sông Bạch Đằng.

 Lược đồ cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất.
Lê Hoàn trước hết cho quân chặn đường thủy, đội quân của Lưu Trừng tiến vào sông Bạch Đằng, vấp ngay sự kháng cự của quân ta, phải chiến đấu vô cùng vất vả. Những ngày đầu, thế của địch rất mạnh, nhiều chiến thuyền của ta bị địch cướp, hơn một ngàn binh sĩ phải hy sinh. Những cọc đóng trên sông Bạch Đằng không phát huy được tác dụng như thời kỳ của Ngô Quyền, nhưng cũng gây cho địch rất nhiều trở ngại. Mặc dù chúng ta có bị thương tổn, nhưng Lê Hoàn vẫn kiên trì, chỉ huy quân sĩ, dựa vào thế hiểm của sông núi Bạch Đằng, để cầm chân quân giặc. Trận đánh kéo dài suốt 2 tháng (từ tháng 2 đến tháng 4 năm 981), Lưu Trừng mới phá nổi vòng vây để tiến lên phía Bắc, hội với các đạo quân khác. Nhưng cũng chính thời gian kéo dài ấy, lại làm cho các đạo quân Tống thêm lúng túng, co cụm lại để chờ nhau mà không thể mở rộng diện tấn công.

 Bãi cọc trên sông Bạch Đằng, nơi xảy ra trận thủy chiến giữa quân và dân Đại Cồ Việt với quân Tống năm 981 (Ảnh minh họa).
Hầu Nhân Bảo tiến đến Ngân Sơn, vào sông Cầu, chờ quân phối hợp. Tôn Toàn Hưng lại chủ trương chờ cho được tin đạo quân của Lưu Trừng mới hành động. Nghe ngóng tin tức của Lưu Trừng không có gì tiến triển nên hắn nhất định án binh bất động để chờ đợi. Mãi cho đến khi Lưu Trừng phá được vòng vây, kéo lên Lạng Sơn, lúc đó hai đội quân Tống mới hội được với nhau. Chúng đi tìm đại quân Việt để giao chiến thì tìm không thấy, cuối cùng chỉ có cách, cùng nhau quay về chỗ Tôn Toàn Hưng đang đóng. Ý đồ chiến lược bị bẻ gãy, thế trận liên kết không thành, chúng không có cách gì thay đổi được tình thế. Hầu Nhân Bảo không nhận được tin tức của hai đạo quân kia, lại tổ chức đánh xuống Bình Lỗ. Tại đây Lê Hoàn đã bố trí trận địa mai phục lớn đợi giặc. Trận đánh diễn ra quyết liệt với thế chủ động của ta tại vùng Phù Lỗ (Sóc Sơn, Hà Nội). Quân Tống đại bại, bị tiêu diệt phần lớn, Hầu Nhân Bảo cũng bị chém chết tại trận. Đạo quân của Tôn Toàn Hưng và Trần Khâm Tộ nghe được tin hai đạo quân bên phải, bên trái đều bị đánh bại, quân giặc hoảng sợ rút chạy về nước, quá nửa cánh quân do Trần Khâm Tộ chỉ huy chết tại trận. Vua Tống trút tất cả mọi tội lỗi lên đầu bọn tướng tá: Lưu Trừng, Giả Thực bị giết ở chợ Ung Châu. Tôn Toàn Hưng bị bắt về triều hạ ngục rồi cũng bị giết. Các tướng giặc Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đều bị bắt sống. Cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược do Lê Hoàn chỉ huy đã thắng lợi vẻ vang.

 Đền thờ Lê Hoàn ở xã Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Thắng lợi của Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống diễn ra nhanh chóng và thực sự to lớn. Chiến thắng đó đã làm nức lòng nhân dân cả nước, củng cố vững chắc lòng tin vào khả năng bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam. Trong quan hệ đối ngoại, nhà Tiền Lê cũng đã thi hành một chính sách tích cực, bình đẳng, kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, kể cả vùng biên cương. Nhà Tống buộc phải kiêng nể. Đất nước ta được thanh bình trong gần một thế kỷ.Tên tuổi Lê Hoàn và quân tướng nhà Tiền Lê mãi khắc sâu vào lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.


Nhan đề : Khu di tích khởi nghĩa Ba Tơ
Tác giả: Trang thông tin điện tử tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Nơi xuất bản: Trang thông tin điện tử tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Thời gian xuất bản: 5/ 10/ 2015
Địa chỉ: http://quangngai.toaan.gov.vn/portal/page/portal/taquangngai/35183331/36367528?pers_id=36367343&item_id=72652945&p_details=1

Khu di tích khởi nghĩa Ba Tơ- Xứng tầm là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt

Mặc dù đã được công nhận là Khu di tích lịch sử quốc gia từ năm 1980, nhưng với tầm vóc to lớn của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, UBND tỉnh đã lập hồ sơ trình Trung ương công nhận là Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Mốc son chói lọi trong lịch sử
Trong những ngày này, Ba Tơ chuẩn bị lễ kỷ niệm 42 năm ngày giải phóng (30.10.1972 - 30.10.2014) và tiến đến kỷ niệm 70 năm ngày khởi nghĩa Ba Tơ (11.3.1945 - 11.3.2015). Các di tích lịch sử đã được tôn tạo, nâng cấp trở nên tươi tắn giữa đại ngàn.
 Cách đây 70 năm, cũng trong mùa đông giá lạnh, tại di tích Lò Gạch gần Suối Năng, thị trấn Ba Tơ (tháng 12.1944), Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi được thành lập. Sau đó, trước tình thế Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), trong đêm 10.3.1945, Tỉnh ủy lâm thời đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp tại nhà đồng chí Trần Quý Hai và quyết định chớp thời cơ, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền từng phần trong toàn tỉnh, trước hết là ở Ba Tơ. Tại chòi canh Suối Loa vào trưa ngày 11.3.1945, Tỉnh ủy lâm thời đã quyết định giành chính quyền tại châu lỵ Ba Tơ ngay trong đêm 11.3.1945, thành lập Ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và phân công nhiệm vụ cho các bộ phận tập trung chuẩn bị khởi nghĩa.

Di tích chiến khu Nước Lá xã Ba Vinh.
Chiều ngày 11.3.1945, đội võ trang khởi nghĩa do đồng chí Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn, Nguyễn Khoách chỉ huy và được sự hỗ trợ của đông đảo đồng bào Kinh – Thượng trong huyện đã chiếm Nha Kiểm lý và Đồn Ba Tơ, bắt sống tên kiểm lý Bùi Danh Ngũ cùng bọn nha lại và 28 lính khố xanh.
Sáng 12.3.1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại sân vận động Ba Tơ, UBND cách mạng lâm thời huyện Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ chính thức ra mắt trước đông đảo quần chúng nhân dân. Bắt đầu từ đây, UBND cách mạng Ba Tơ tuyên bố xóa bỏ bộ máy thống trị của thực dân phong kiến, thành lập chính quyền nhân dân cách mạng huyện Ba Tơ. Ra đời còn non trẻ, ngày 14.3.1945, tại bãi Hang Én, đội du kích Ba Tơ đã tuyên thệ “Hy sinh vì Tổ quốc”. Lời thề đó trở thành động lực chiến đấu và chiến thắng của bao lớp cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Quảng Ngãi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sau đó, Đội du kích Ba Tơ lùi về vùng Cơ Nhất thuộc núi Cao Muôn xây dựng chiến khu. Đội du kích Ba Tơ từ 28 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của đội trưởng Phạm Kiệt và chính trị viên Nguyễn Đôn đã chuyển về đồng bằng xây dựng căn cứ tại Vĩnh Sơn và Núi Lớn, nhanh chóng phát triển thành hai đại đội Phan Đình Phùng và Hoàng Hoa Thám. Lực lượng dần lớn mạnh xuất kích đánh Nhật lập nên các chiến công vang dội như: Di Lăng, Xuân Phổ, Mỏ Cày, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền ở Quảng Ngãi, một trong những địa phương giành chính quyền sớm nhất trong cả nước.
Trong 7 di tích liên quan trực tiếp đến cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ, thì trong đó có 1 điểm di tích chòi canh Suối Loa nằm ở xã Ba Động, còn lại ở thị trấn Ba Tơ. Ngoài ra còn có 9 điểm di tích như núi Cao Muôn, khúc sông Liêng… ghi dấu sự trưởng thành, lớn mạnh và những chiến công của Đội Du kích Ba Tơ.
Cũng từ Đội Du kích Ba Tơ, nhiều đồng chí qua đấu tranh cách mạng đã trở thành các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và trong Quân đội Nhân dân Việt Nam Anh hùng, như Trung tướng Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn, Nguyễn Chánh, Trần Quý Hai, thiếu tướng Võ Thứ...
Trân trọng giá trị di tích
Ngày 10.7.1980, Bộ Văn hóa- Thông tin đã có Quyết định số 92/QĐ- VHTT công nhận Khu di tích khởi nghĩa Ba Tơ là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Năm 1982, di tích khởi nghĩa Ba Tơ được đầu tư kinh phí để tu bổ, tôn tạo, bảo tồn các địa điểm liên quan đến cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ và Đội Du kích Ba Tơ. Địa điểm di tích sân vận động và di tích đồn Ba Tơ được chọn làm trọng điểm bảo tồn không gian của di tích gốc, kết hợp với xây dựng nhà trưng bày bổ sung giới thiệu về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ.

Đoàn thanh niên Khối các cơ quan tỉnh tham quan, chụp hình lưu niệm tại nơi Đội du kích Ba Tơ tuyên thệ “Hy sinh vì Tổ quốc”.
Không gian tôn tạo khu di tích khá rộng lớn trên 12.800m2, được phân thành các khu: Đài tưởng niệm, nhà trưng bày bổ sung, nhà tiếp khách, khu vực trồng cây ăn quả, còn lại là khu vực cây xanh, đường đi bộ và thảm cỏ. Tại nhà trưng bày, ngành bảo tàng đã sưu tầm trưng bày gần 150 hiện vật và những tài liệu liên quan đến đất và người Ba Tơ, cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và hoạt động của Đội du kích Ba Tơ.
Khuôn viên Khu di tích ngày càng mở rộng, tượng đài khởi nghĩa Ba Tơ cũng được đầu tư xây dựng mới thay thế cho tượng đài cũ. Tại sân vận động, Quân khu 5 đã đầu tư kinh phí xây dựng biểu tượng phù điêu, nơi thành lập đội du kích Ba Tơ và bia tưởng nhớ nơi thành lập Tiểu đoàn 19. Ngoài ra, các di tích Lò Gạch, Sông Liêng, Nha Kiểm lý, bãi Hang Én, nhà đồng chí Trần Quý Hai, chòi canh Suối Loa đã được phục dựng lại theo nguyên gốc. Các di tích khác cũng đã dựng bia ghi dấu sự kiện lịch sử.
Năm 2010, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Pháp cho Đội du kích Ba Tơ. Tháng 8.2013, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định công nhận 5 xã và thị trấn Ba Tơ thuộc vùng An toàn khu của Trung ương ở Quảng Ngãi trong thời kỳ chống Pháp.
Với giá trị lịch sử tiêu biểu, giá trị tiên phong của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ, cũng như vai trò, công lao và những cống hiến to lớn của Đội du kích Ba Tơ, ngày 29.9.2014 huyện Ba Tơ đã đề nghị UBND tỉnh lập hồ sơ trình Trung ương công nhận là di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt. Bởi đó là nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Ba Tơ cũng như tỉnh Quảng Ngãi, để xứng tầm lịch sử của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ huyền thoại.


Nhan đề : Nhà Trần tiếp nối nhà Lý chấn hưng Đại Việt thế kỷ 13
Tác giả: Trần Đại Quyết
Nơi xuất bản: Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Nam Định
Thời gian xuất bản: 23/ 8/ 2012
Nhà Trần tiếp nối nhà Lý chấn hưng Đại Việt thế kỷ 13
Trước khi tiếp nối nhà Lý chấn hưng quốc gia Đại Việt thế kỷ 13, các vị Thuỷ Tổ nhà Trần đã có công phò tá, giữ gìn ngôi báu của những vị vua cuối triều Lý. 
Trước khi tiếp nối nhà Lý chấn hưng quốc gia Đại Việt thế kỷ 13, các vị Thuỷ Tổ nhà Trần đã có công phò tá, giữ gìn ngôi báu của những vị vua cuối triều Lý. Bài vị thờ phụng Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam đặt tại Tức Mặc - Thiên Trường Nam Định. Hành cung Thiên Trường - Nam Định được coi là kinh đô thứ hai triều Trần, có mối liên hệ lịch sử đặc biệt với Thăng Long - Hà Nội.
I- Cơ duyên lịch sử
Triều đại nhà Lý với những vị vua sáng tôi hiền đã đạt tới đỉnh cao trong lịch sử dựng nước và giữ nước của quân dân Đại Việt. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 13 cơ nghiệp nhà Lý dần dần suy vi. Đất nước vào cảnh loạn lạc. Năm Mậu Thìn 1208, Quánh Bốc và Đoàn Thượng tranh giành quyền lực, chống lại triều đình, Vua Lý Cao Tông bỏ Thăng Long đưa gia quyến chạy lên Quy Hóa - Tam Nông (Phú Thọ); Thái tử Lý Hạo Sảm chạy về vùng biển Hải Ấp (Thái Bình) ở nhờ gia đình Trần Lý, sau đó dựa vào thế lực anh em họ Trần dẹp loạn. Trần Tự Khánh thay cha lên Tam Nông rước vua Lý Cao Tông về kinh thành. Thái tử Sảm lấy Trần Thị Dung con gái Trần Lý. Do có công giúp nhà Lý dẹp loạn, Trần Lý và các con của ông là Trần Tự Khánh, Trần Thừa; cháu của ông là Trần Thủ Độ (Trần Thủ Độ là con Trần Hoàng Nghị - em ruột Trần Thừa) được vua Lý phong tước và tin dùng.
Tháng 4 năm 1210 Lý Cao Tông mất, Lý Hạo Sảm lên ngôi hoàng đế hiệu là Lý Huệ Tông, phong Trần Thị Dung (em gái Trần Thừa, Trần Tự Khánh) làm chính phi, phong Trần Tự Khánh làm Phụ chính, nắm giữ toàn bộ binh quyền, quyết định những việc trọng đại trong triều nội; Trần Thừa làm Nội thị phán phủ, Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Dưới triều Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông, anh em họ Trần hết lòng trung thành, bảo vệ vua Lý, ra tay dẹp loạn trong nước, hai lần đích thân đi mời vua Lý về kinh thành tiếp tục ngôi vua trị vì đất nước (lần thứ hai đón vua Lý Huệ Tông từ Lạng Châu - Lạng Sơn ngày nay). Hai lần đón vua xa giá về kinh đều do Trần Tự Khánh chỉ huy. Việc nhà Trần thay thế nhà Lý, sau này có ý kiến chưa căn cứ vào bối cảnh lịch sử cụ thể. Nếu họ Trần có ý đồ cướp ngôi vua thì hai lần vua Lý bỏ kinh thành là thời điểm thuận lợi nhất để hành sự!? Nếu Trần Lý và anh em họ Trần trong thời gian dài cuối triều Lý không ra tay phò tá thì rất có thể triều Lý đã không thể kéo dài thêm tới hàng chục năm. Cũng vì sự nghiệp phò tá nhà Lý, năm 1212 Trần Lý đã hy sinh, và sau đó, năm 1223 con ông là Trần Tự Khánh cũng hy sinh.
Chính quyền nhà Lý thời Lý Huệ Tông ngày càng suy yếu tận gốc rễ, bộ máy quan lại chuyên quyền nhũng nhiễu, quan đại thần nhà Lý không có người hiền tài, vua không ra vua, quan chẳng ra quan; trăm họ lầm than. Vua Lý Huệ Tông mắc bệnh trọng, không có con trai kế nghiệp, phong công chúa Phật Kim - Chiêu Thánh làm Thái tử. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) truyền ngôi cho Lý Chiêu Hoàng rồi đi tu ở chùa Chân Giáo. Việc truyền ngôi cho Lý Chiêu Hoàng, thực chất Lý Huệ Tông đã từ bỏ ngai vàng, bỏ mặc đất nước đang lúc loạn lạc. Vị nữ chúa mới 8 tuổi đầu không thể đảm đương nổi công việc giang sơn trăm bề nặng gánh. Trong bối cảnh đó, sự kiện chuyển giao chính quyền từ nhà Lý sang nhà Trần như mối cơ duyên của lịch sử Đại Việt. “Chiếu nhường ngôi” của Lý Chiêu Hoàng (vua thứ 9 triều Lý) ban bố ngày 21 tháng 10 Ất Dậu, tức ngày 22-11-1225, viết: “…Trẫm là nữ chúa, tài đức đều hèn, không người phò tá, giặc cướp nổi lên như ong, đâu có thể gìn giữ ngôi trời quá nặng”… “Nay trẫm một mình suy đi tính lại, duy có Trần Cảnh là người văn chất rỡ ràng, thật đúng tư cách bậc hiền nhân quân tử, uy nghi thận trọng, có phong tư của bậc văn võ thánh thần…”.
Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu 1225 Trần Cảnh lên ngôi mở đầu vương triều Trần. Kế tục thành tựu Đại Việt triều Lý, triều Trần quy tụ bách tính, thu phục hiền tài, chấn hưng Đại Việt thành quốc gia hùng mạnh, có nền văn trị rực rỡ, pháp quyền công minh, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân no ấm. Triều Trần trải qua 175 năm (1225 - 1400) có 12 đời vua và thời hậu Trần 7 năm (1407-1414) có 2 đời vua, tất cả là 182 năm với 14 đời vua. Thời thịnh trị, vương triều Trần đã sản sinh ra các vị vua anh minh và anh hùng: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông… cùng nhiều nhân tài trác việt, công danh lừng lẫy cả về văn trị, võ công, và lòng trung quân ái quốc. Hào khí Đông A - hạt nhân sức mạnh Đại Việt thế kỷ 13 được dầy công hun đúc: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức”. Nửa, cuối thế kỷ 13, nhà Trần lãnh đạo quân dân Đại Việt 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông - Đế quốc phong kiến được coi là mạnh nhất thế giới đương thời.
Hồ Chủ tịch trong lịch sử diễn ca, đã khẳng định: “Thời Trần văn giỏi, võ nhiều. Người dân thịnh vượng, trong triều hiển minh”.

II- Các vị Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam
và Hành cung Thiên Trường 
                                  
Đại Việt Sử ký toàn thư, chép: “Tổ tiên nhà Trần là Trần Kinh đến ở hương Tức Mặc phủ Thiên Trường sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa”. Như vậy Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam là Trần Kinh. Nhưng quốc sử và các tài liệu thời Trần đều không ghi chép đầy đủ ngày tháng năm sinh, năm mất của vị Thuỷ Tổ Trần Kinh. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào đời vua Trần Anh Tông (vua thứ tư triều Trần), năm Nhâm Tý, Hưng Long thứ 20, truy tôn Ý vương Trần Kinh làm Mục tổ Hoàng đế - vị Tổ thứ Nhất; truy tôn Cung vương Trần Hấp làm Ninh tổ Hoàng đế - vị Tổ thứ Hai; truy tôn Chiêu vương Trần Lý làm Nguyên tổ Hoàng đế - vị Tổ thứ Ba; Trần Thừa làm Thái tổ Hoàng đế - vị Tổ thứ Tư. Trần Thừa sinh năm Giáp Thìn 1184 là con trưởng của Nguyên tổ Trần Lý, anh ruột Trần Tự Khánh và Linh từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung.
Mục tổ Trần Kinh ở hương Tức Mặc, sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sang định cư ở Hải Ấp (Đông Hưng, Thái Bình ngày nay) sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh ra Trần Thừa. Thái Tổ Trần Thừa sinh ra Trần Cảnh - vị vua đầu tiên triều Trần. Trần Thừa và anh em họ Trần do có công lao phò tá giúp vua nhà Lý dẹp loạn, khôi phục kinh thành Thăng Long, năm Bính Tý 1216 được vua Lý Huệ Tông phong làm Nội thị phán phủ, đến năm Quý Mùi 1223 sắc phong Thái uý phụ chính. Trần Thừa làm quan triều Lý, làm Thái thượng hoàng triều Trần, mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1234.
Các nhà nghiên cứu sử học Việt Nam và Ban Liên lạc họ Trần Việt Nam với nhiều cứ liệu lịch sử, khoa học, thống nhất lấy ngày 18 tháng Giêng hàng năm làm ngày Giỗ Tổ họ Trần Việt Nam, tri ân Tổ tiên - Tri ân một vương triều đã có những đóng góp bất hủ vào lịch sử dựng nước, giữ nước vẻ vang của dân tộc Việt Nam với nhiều nhân tài trác việt gắn liền với võ công, văn trị hiển hách, lưu giữ ngàn thu.
Năm Kỷ Hợi (1239), tháng Giêng, Phùng Tá Chu được phong chức Nhập nội Thái phó về Tức Mặc xây dựng nhà cửa cung điện. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Nhâm Tuất (Thiên Long) năm 1262, mùa Xuân, tháng Hai, Thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc, ban tiệc lớn, đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang; lại xây riêng một cung khác cho vua nối ngôi ngự khi về chầu, gọi là Trùng Hoa”. Thời Trần, Hành cung Thiên Trường (Nam Định) có mối quan hệ lịch sử đặc biệt với Thăng Long (Hà Nội), có vị trí như kinh đô thứ hai trong thời bình và khi chống giặc ngoại xâm. Trong dịp Lễ hội Trần Nhâm Thìn 2012, tỉnh Nam Định tổ chức Đại lễ kỷ niệm 750 năm Thiên Trường - Nam Định (1262-2012).
Hương Tức Mặc, sau thành phủ Thiên Trường thuộc tỉnh Nam Định là quê hương của dòng họ Trần Việt Nam. Theo “Văn bia Nam Trạch miếu bút ký”, họ Trần dựng Miếu thờ Tổ tiên vào năm 1239 ở làng Tức Mặc. Như vậy, Đền thờ các vị Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam được lập vào năm 1239 ở làng Tức Mặc - Thiên Trường (Nam Định). Thế kỷ XV, Đền Trần và các công trình kiến trúc ở Thiên Trường bị giặc Minh tàn phá, huỷ hoại. Năm 1694 (đời vua Lê Hy Tông) Đền thờ Thuỷ tổ họ Trần ở Thiên Trường được dựng bằng gỗ lim; năm 1705, chính thức gọi là Trần Miếu. Đền Trần ở Thiên Trường hiện nay được trùng tu lớn vào thời Nguyễn. Chính lễ khai ấn thời Trần hàng năm được cử hành đêm 14 rạng ngày 15 tháng giêng tại Đền Trần Thiên Trường, nơi thờ tự bài vị Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam và các vua Trần. Thượng hoàng Trần Thái Tông năm 1258, sau khi nhường ngôi cho Thái tử Hoảng (Trần Thánh Tông), năm 1262 về ở cung Trùng Quang - Phủ Thiên Trường nơi có Tiên Miếu thờ các vị Thuỷ Tổ của dòng họ. Các vua Trần kế tiếp, sau khi nhường ngôi, đều về ngự tại cung Trùng Quang - Thiên Trường, nơi quê cha đất tổ.
Hành cung Thiên Trường xưa, Đền thờ Thuỷ Tổ họ Trần Việt Nam tại Tức Mặc - Nam Định nay, cùng nhiều chứng tích, di vật được phát hiện tại Khu Di tích Văn hóa Trần Nam Định, gắn liền với một triều đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc, đang được đề nghị Nhà nước xếp hạng di sản cấp quốc gia đặc biệt.


Nhan đề : Nhớ về Đồng Xoài những năm “ rực lửa chiến công”
Tác giả: Hà Thanh
Nơi xuất bản: Bình Phuớc Online
Thời gian xuất bản: 26/ 12/ 2014
Địa chỉ: http://baobinhphuoc.com.vn/Content/nho-ve-dong-xoai-nhung-nam-ruc-lua-chien-cong-36926

 

Nhớ về Đồng Xoài những năm “rực lửa chiến công”

BP - Đồng Xoài được giải phóng đến nay vừa tròn 40 năm. Thế nhưng, với người dân Đồng Xoài, mốc lịch sử đặc biệt để làm nên “Đồng Xoài rực lửa” là ngày 9-6-1965. Đó là ngày tháng mà lịch sử mãi còn ghi những trận chiến đấu oanh liệt của quân và dân Đồng Xoài anh hùng, làm phá sản hoàn toàn Chiến tranh Đặc biệt của Mỹ trên chiến trường miền Nam. 
Pháo binh ta nã đạn vào Chi khu Đồng Xoài ngày 25-12-1974 - Ảnh tư liệu
Hòa trong niềm vui chung của toàn Đảng, toàn dân, những cựu chiến binh đã từng sống, chiến đấu để làm nên một “Đồng Xoài rực lửa”, giải phóng hoàn toàn Chi khu Đồng Xoài đều bồi hồi nhớ lại những ngày tháng không thể nào quên.
“ĐỒNG XOÀI RỰC LỬA”
Sau 5 giờ chiến đấu, ta làm chủ quận lỵ, chi khu, loại khỏi vòng chiến đấu 887 tên địch, thu 552 súng các loại, 50 máy thông tin, 30 xe quân sự, 3.000 đạn pháo 105-155 ly, 10 tấn gạo, giải phóng 4.500 dân.
Trận đánh Đồng Xoài, quân ta bắt sống tên Vũ Khoái quận trưởng kiêm chi khu trưởng, là trận đánh đập tan ý đồ phản kích chiếm lại đường số 14, buộc địch phải co cụm phòng thủ, tạo thuận lợi cho quân ta tiến công giải phóng tỉnh Phước Long vào ngày 6-1-1975.
(Nguồn: Lịch sử Việt Nam)
Đồng Xoài, trước ngày giải phóng gọi là Đôn Luân, nằm ở vị trí chiến lược rất quan trọng. Vì vậy, Mỹ - ngụy xây dựng Chi khu quân sự Đồng Xoài với các sân bay, bãi pháo, xe tăng, công sự ngầm cố thủ, cùng với các “ấp chiến lược” ken dày, nối liền với Chi khu quân sự Phước Long và khu “mắt thần” rađa Bà Rá, tạo thành vành đai phòng thủ “bất khả xâm phạm” để bảo vệ Sài Gòn. Đại tá Trương Văn Đàng, cựu chiến binh Sư đoàn 9, Quân đoàn 4 là một trong những chiến sĩ thuộc Trung đoàn 2 trực tiếp tham gia trận đánh Chi khu Đôn Luân ghi lại trong hồi ký: Đúng 16 giờ ngày 9-6-1965, từ vị trí tập kết các đơn vị hành quân chiếm lĩnh trận địa. Nhiều người lính tự viết khẩu hiệu cho riêng mình với nội dung “Quyết tử giải phóng Đồng Xoài”. Đây là trận chiến đấu quyết liệt mà từ thủ trưởng đơn vị đến các chiến sĩ đều quyết chiếm cho bằng được cứ điểm của địch. Cái giá ấy là hàng trăm cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy sinh hoặc bị thương trước cửa mở để cuối cùng làm nên một “Đồng Xoài rực lửa”. Chiến thắng này đã chứng minh tinh thần chiến đấu kiên cường dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 2, sau đó được mang tên Trung đoàn Đồng Xoài. Thắng lợi của trận Đồng Xoài rất to lớn, khẳng định sức mạnh và chiến lược của các binh đoàn chủ lực trong quá trình phát triển của chiến tranh cách mạng, đánh dấu sự phá sản hoàn toàn Chiến tranh Đặc biệt của Mỹ trên chiến trường.
GIẢI PHÓNG ĐỒNG XOÀI
Trung tá Nguyễn Văn Vẫy
Trung tá Nguyễn Văn Vẫy, nguyên Tham mưu trưởng Huyện đội Đồng Phú, hiện cư ngụ tại phường Tân Phú (TX. Đồng Xoài), nhớ lại những ngày tháng chuẩn bị cho trận đánh quyết định giải phóng Đồng Xoài với những hồi ức không thể nào quên. Ngày ấy, ông là chiến sĩ quân báo K17. Đầu năm 1974, lực lượng quân báo bí mật đột nhập, do thám và nắm chắc tình hình báo cáo cấp trên chuẩn bị cho trận đánh. Đến ngày 20-12-1974, các lực lượng triển khai ém quân. Đêm 25-12, tất cả các đơn vị vào vị trí. Đúng 5 giờ sáng ngày 26-12, các trận địa pháo đồng loạt nhả đạn vào các yếu điểm của địch. Đến 9 giờ sáng quân ta đánh cầu Nha Bích, sân bay Tà Bế, chốt Cầu Hai. Tổ của ông Vẫy tham gia đánh chốt ở Thuận Lợi... Quân ta đồng loạt tấn công trên tất cả các mũi, địch thất bại nhanh chóng và Chi khu Đồng Xoài được giải phóng. Ông Vẫy nói: “Trận đánh giải phóng Đồng Xoài kết thúc nhanh gọn là nhờ công tác chuẩn bị và tổ chức tốt. Lực lượng quân báo bí mật tiếp cận địch, nắm chắc tình hình địch. Khi nổ súng thì đồng loạt, tiêu diệt gọn, giải phóng nhanh, bảo đảm an toàn cho dân”.
Thượng tá Trần Văn Thuần
Thượng tá Trần Văn Thuần, nguyên Phó trưởng Công an huyện Đồng Phú, hiện cư ngụ tại phường Tân Xuân (TX. Đồng Xoài), cũng là một trong những người lính trực tiếp tham gia trận đánh giải phóng Chi khu Đồng Xoài. Ông Thuần kể tường tận từng vị chỉ huy, từng đơn vị được giao nhiệm vụ tiêu diệt các đồn, bốt xung quanh Chi khu Đồng Xoài. Hồi ấy, ông Thuần là Tiểu đội trưởng, Ban an ninh thuộc K17 Đồng Xoài. Ông Thuần cho biết, bắt đầu từ ngày 23-12-1974 quân ta đánh đồn địch ở cầu 11, rồi đánh đồn cầu 2. Sau khi các đồn bốt của địch xung quanh chi khu bị ta tiêu diệt, địch co cụm vào chi khu. Ngày 26-12, pháo binh của ta bắt đầu cấp tập dội lửa vào chi khu làm cho địch trở tay không kịp. Sau hỏa lực, bộ binh của ta ào ạt tấn công, nhanh chóng giải phóng chi khu. Ông Thuần nói: Sướng nhất trong trận đánh này là quân ta không ai hy sinh vì chúng tôi tấn công sau khi pháo đã cấp tập băm nát căn cứ của địch. Nhưng sau khi giải phóng phải đưa dân đến vùng an toàn. Bởi địch cho máy bay lên ném bom hòng chiếm lại Đồng Xoài. Nhưng âm mưu của chúng đã thất bại”. 


5. NƯỚC ÂU LẠC
Nhan đề : Sự ra đời của Nhà nước Âu Lạc
Tác giả: Báo Nhân Dân điện tử
Nơi xuất bản: Báo Nhân Dân điện tử
Thời gian xuất bản: 14/ 4/2005
Sự ra đời của Nhà nước Âu Lạc
Người Lạc Việt và người Tây Âu vốn từ lâu đã có mối quan hệ kinh tế-văn hóa gần gũi. Thủ lĩnh của nhóm người Tây Âu sống trên đất Văn Lang là Thục Phán. Liên minh bộ lạc Tây Âu ngày càng mạnh lên.
Từ trước cuộc xâm lăng của quân Tần, giữa vua Hùng và họ Thục đã xảy ra một cuộc xung đột kéo dài chưa phân thắng bại. Trong bối cảnh đó, cuộc xâm lăng của quân Tần xảy ra ồ ạt. Đứng trước tình hình mới, hai bên chấm dứt xung đột, cùng chiến đấu chống ngoại xâm. Kháng chiến thắng lợi, Thục Phán với tư cách người chỉ huy chung đã được thay thế Hùng Vương làm vua, đặt tên nước mới là Âu Lạc. Quốc gia Âu Lạc ra đời khoảng đầu thế kỷ III tr.CN.
Nước Âu Lạc là bước kế tục và phát triển cao hơn của nước Văn Lang và trên một phạm vi rộng lớn hơn của người Việt và người Tây Âu. Tổ chức bộ máy nhà nước và các đơn vị hành chính dưới thời Âu Lạc vẫn chưa có gì thay đổi khác với thời Văn Lang của các Vua Hùng. Đứng đầu nhà nước là Thục An Dương Vương. Dưới đó, trong triều vẫn có các Lạc hầu giúp vua cai quản đất nước. Ở các địa phương (bộ) vẫn do các Lạc tướng đứng đầu quản lý. Đơn vị hành chính cấp cơ sở vẫn là các công xã nông thôn (kẻ, chiềng, chạ).
Mặc dù nước Âu Lạc tồn tại không lâu, chỉ trong khoảng từ năm 208 đến năm 179 tr.CN, nhưng về các mặt vẫn tiếp tục được phát triển trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được thời Văn Lang, nhất là trên lĩnh vực quân sự.
Theo tài liệu khảo cổ thì An Dương Vương xây dựng được một đạo quân khá mạnh sử dụng thành thạo cung tên. Các loại vũ khí phong phú, đa dạng và hơn vạn mũi tên đào được ở chân thành Cổ Loa đã chứng tỏ điều đó. Âu Lạc còn có thuỷ quân và được luyện tập khá thường xuyên. Sau khi nước Âu Lạc ra đời, Thục An Dương Vương đã chọn Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) làm Kinh đô và cho xây dựng thành Cổ Loa kiên cố, trở thành trung tâm của nước Âu Lạc và là một căn cứ quân sự vững chắc, lợi hại.
Thành Cổ Loa nằm ở vị trí trung tâm đất nước vàlà đầu mối của các hệ thống giao thông đường thuỷ. Ở đây có sông Hoàng chảy qua thuận lợi cho việc đi lại quanh vùng, rồi toả đi các nơi, theo sông Hồng, sông Đáy xuôi về đồng bằng rồi ra biển cả hoặc xuôi sông Cầu qua sông Thương, sông Lục Nam lên vùng rừng núi Đông Bắc v.v...
Thành Cổ Loa gồm có 3 vòng thành chính khép kín (thành nội, thành trung, thành ngoại). Thành nội (vòng trong cùng) hình chữ nhật, có chu vi 1650 mét, cao khoảng 5 mét, mặt thành rộng từ 6 đến 12 mét, chân rộng từ 20 đến 30 mét. Thành nội chỉ có 1 cửa thành. Trên mặt thành có 18 ụ đất nhô ra ngoài để làm vọng gác. Những vọng gác này được đắp cao hơn mặt thành từ 1 mét đến 2 mét. Thành trung có 5 cửa. Ở đây cũng có một số ụ đất đắp cao hơn để làm vọng gác. Thành ngoại (vòng ngoài cùng) dài 8 km, cao từ 4 đến 9 mét. Chân thành rộng từ 12-20 mét. Thành có 3 cửa ra vào. Cả 3 vòng thành đều có hào ở phía ngoài. Cả ba hào được nối liền với nhau và nối với sông Hoàng để bảo đảm quanh năm đều có nước, và làm tăng thêm sự hiểm yếu của Kinh thành Cổ Loa. Giữa các vòng thành và phía ngoài thành ngoại có nhiều ụ đất và luỹ chắc chắn.
Với vị trí kiên cố và lợi hại đó, thành Cổ Loa đã góp phần vào chiến thắng vẻ vang của nhân dân Âu Lạc chống các cuộc xâm l
ược của quân Triệu (trước năm 179 tr.CN).
Quốc gia Văn Lang-Âu Lạc tồn tại trên dưới 500 năm tr.CN. Bằng sức lao động sáng tạo và đấu tranh kiên cường, bền bỉ, người Việt cổ đã xây dựng được cho mình một đất nước phát triển với nhiều thành tựu kinh tế và văn hóa làm nền tảng cho một nền văn minh bản địa đậm đà bản sắc dân tộc.
Trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và kết cấu xóm làng bền chặt, cư dân Văn Lang-Âu Lạc tiến hành khai hoang, làm thuỷ lợi, chống ngoại xâm và các hoạt động khác. Cũng từ đó, người Việt cổ bấy giờ đã định hình cho mình một lối sống, cách ứng xử, tâm lý, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật, toát lên những đặc điểm của đời sống văn hóa vật chất và tinh thần đặc sắc.
Về đời sống vật chất, thóc gạo là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, làm bánh chưng, bánh giầy. Nhiều tài liệu đã ghi lại sự việc trên. Sách Lĩnh nam chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Rất nhiều chiếc chõ gốm dùng để thổi xôi đã tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hóa Đông Sơn.
Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang-Âu Lạc còn sử dụng các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ, rau quả. Lúc thiếu thốn người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng.
Thức ăn cũng khá phong phú gồm các loại cá, tôm, cua, ốc, hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà, đậu…). Thức ăn được chế biến bằng nhiều cách khác nhau theo sở thích từng vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống…). Nghề chăn nuôi và săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn có nhiều chất đạm cho mỗi gia đình. Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm ở mỗi nhà (trâu, bò, lợn, gà, chó…). Trong số đồ ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang –Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới như vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt… Nguồn lương thực và thực phẩm của người Việt cổ thực phong phú, đa dạng, rất giàu chất bột, chất đạm và nhiều chất bổ khác, trong đó lúa gạo là chính. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, cũng là một biểu hiện của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ.

Thời Hùng V
ương, người ta cũng đã biết sử dụng nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ, riềng, tỏi.
Trong tập quán ăn uống của người Việt cổ bấy giờ phải kể đến tục uống rượu và ăn trầu. Rượu được nhắc nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Văn Lang có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen. Dấu tích hạt cau, quả cau được tìm thấy ở Đông Sơn.
Trang phục của c
ư dân Văn Lang- Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát triển, đầu óc thẩm mỹ và bản sắc văn hóa của người Việt cổ. Do nghề dệt rất phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông, nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có loại quấn đơn và loại quấn kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Nhiều tượng người đàn ông thổi khèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng người mặc váy dài trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu.
Vào các ngày lễ hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: Có mũ lông chim, váy xoè kết bằng lông chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (Khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay, vòng ống chân bằng đá, đồng). Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Mặt khác, sự phong phú và dùng phổ biến nhiều loại đồ trang sức đẹp cũng chứng tỏ đời sống vật chất cư dân Văn Lang-Âu Lạc được nâng cao rõ rệt. Về đầu tóc của người bấy giờ có 4 kiểu: Kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và quấn tóc ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự. Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng để xõa khá phổ biến ở nam giới thời bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau.
Có thể nghĩ rằng, kiểu tóc cắt ngắn buông xõa sau lưng và búi tóc cao là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người thời Văn Lang.
Nhà ở có nhiều kiểu cách như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Trên trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rũ xuống như mái tranh đến tận sàn, có cầu thang lên xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó thường gọi là kẻ, chạ, chiềng.
Trong sinh hoạt gia đình, các vật dụng rất phong phú gồm rất nhiều loại khác nhau như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài ra, có những đồ đựng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu v.v…
Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè trên các con sông, rạch. Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu, bò, ngựa.


3. NƯỚC XÍCH QUỶ
Nhan đề : Bước đầu tìm hiểu về Kinh Dương Vương – vị vua Thủy tố Việt Nam
Tác giả: Báo điện tử Bắc Ninh
Nơi xuất bản: Báo điện tử Bắc Ninh
Thời gian xuất bản: 14/ 3/ 2011
Bước đầu tìm hiểu về Kinh Dương Vương
vị vua Thủy tổ Việt Nam

Theo truyền thuyết lịch sử và các tài liệu, thư tịch cổ: Kinh Dương Vương, huý Lộc Tục, sinh ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (2919 TCN) mất ngày 18 tháng Giêng năm Kỷ Sửu 2792 TCN) (1) Quê quán: Bộ tộc Dâu, xứ Vũ Ninh (nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) (2). Năm 2879 TCN, Kinh Dương Vương lập nên nhà nước Xích Quỷ, (nhà nước sơ khai đầu tiên của chúng ta). Xích Quỷ là tên một ngôi sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên bầu trời (Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh biên soạn, trang 168, Hàn Man Tử hiệu đính, Trường Thi xuất bản năm 1932).
Xích quỷ nghĩa bóng là đất nước tự chủ ở phương Nam, tự phát triển mạnh mẽ, rực rỡ. Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ: phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc), phía Nam giáp Hồ Tôn, Chiêm Thành; phía Đông giáp bể Nam Hải; phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc). Lúc đầu Vương đóng đô ở núi Ngàn Hống (hay còn gọi là Hồng Lĩnh), thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay. Sau đó, Vương dời đô về Ao Việt (Việt Trì), đền Tiên Cát ngày nay.
ở phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì thờ Hoàng Hậu - vợ vua Kinh Dương Vương (Thân mẫu của Lạc Long Quân và Âu Cơ). Tên thật của mẫu là Hồng Đăng Ngạn, hiệu Thần Long (Long Thần), tự Thanh Minh, Tên trong sắc phong là Ngọc Tinh Thần Nữ nàng cả Đại vương, dân gian tôn là Bà Chúa Tằm, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu sinh ngày 5 tháng 5 và mất ngày 10 tháng 10 âm lịch, mộ hiện nay vẫn còn ở phường Tiên Cát, Việt Trì, Tượng mẫu cao 1m67 làm bằng chất liệu đá, nặng 3 tấn. Đền Cát Tiên thờ Thuỷ tổ Quốc Mẫu đã được UBND tỉnh Phú Thọ ra Quyết định số 2150/QĐ-PT ngày 21-7-2003 công nhận là di tích lịch sử văn hoá.
Thần phả Á Lữ còn ghi: Lịch sử họ Hồng Bàng, Kinh Dương Vương tên là Lộc Tục dòng dõi vua Thần Nông. Xưa kia, vào năm Nhâm Tuất, cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Sau Đế Minh nhân đi tuần phương nam, đến núi Ngũ Tĩnh lấy con gái Vụ Tiên sinh Vương. Vương là bậc thánh trí thông minh. Đế Minh rất yêu quý muốn truyền ngôi cho. Vương cố nhường lại cho anh không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi nối ngôi cai quản phương Bắc, lại phong cho Lộc Tục là Kinh Dương Vương cai quản Phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vương lấy con gái Động Đình Quân là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân.
Sử sách còn ghi: Thần nông lấy Lữ Nương sinh ra Đế Thừa, Đế Thừa sánh duyên cùng Đại Nương sinh ra Đế Minh. (3)
Theo lịch sử Việt Nam: Kinh Dương Vương là vị vua đầu tiên của nước ta (Thời Lê Thánh Tông, sử gia Ngô Sỹ Liên chép “Kỷ Hồng Bàng thị” Tổ tiên người Việt có vua đầu gọi là Kinh Dương Vương). Cuộc đời Đức Ngài thăng hoa, có nhiều kỷ niệm đẹp, với những chiến công oanh liệt, vẻ vang, có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ lúc mới sinh đến năm làm vua (2919 TCN - 2879 TCN) - Lúc nhỏ được mẹ là nàng Vụ Tiên dạy dỗ, lúc lớn: chịu khó lặn lội khắp nơi, không ngại khó khăn gian khổ để xây dựng mở mang gìn giữ bờ cõi giang san, dậy dân cấy lúa lập làng, chữa bệnh v.v… được nhân dân kính trọng, Cảnh Lộc Tục sống hoà mình với dân chúng ở ấp Phúc Thần, cảnh tỏ tình với người yêu, cảnh Lộc Tục dẫn quân dẹp giác Ma Mạc ở Tử Di Sơn và thu phục Vương Đạo Nhân ở gần hồ Động Đình, cảnh ăn mừng lấy vợ và được phong vương. (4) Giai đoạn từ lúc đức ngài làm vua đến lúc mất: (2879 TCN - 2792 TCN). Cảnh xây dựng toà hành cung chính điện, làm hồ gương thần phát tích, đào hồ tắm ngựa, đường đầu binh, đường bái tướng… ở ấp Phúc Thần. Cảnh Kinh Dương Vương mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tương thân, tương ái trong gia đình, họ tộc, quê hương, đất nước đồng thời tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu chia rẽ của người nước ngoài, cùng nhân dân đoàn kết chống thiên tai, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cuộc sống. Đến năm 2792 bỗng một hôm trời sầu đất thảm, đức vua Thuỷ tổ Việt Nam thiêm thiếp về thần trong lòng tiếc thiêng vô hạn của nhân dân.
Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương là một trong những lăng mộ, ngôi đền thiêng cổ nhất Việt Nam, được nhân dân ta xây dựng và bảo vệ từ xa xưa. Nhân dân Phúc Khang có câu:
“Phúc Khang nguyên lăng miếu
Nghĩa lĩnh cổ kinh thành”
(Lăng miếu đầu tiên tại thôn Phúc Khang kinh thành xưa ở núi Nghĩa Lĩnh).
Chính nơi thiêng liêng này được xếp vào loại miếu thờ đế vương các triều đại mỗi lần quốc khánh vua sai quan đến tế, dân đến thờ phụng.
Trân trọng những di tích có liên quan đến thời đại Hồng Bàng 2-2-1993 Bộ VH-TT (nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch) ra Quyết định số 74/VH-QĐ công nhận di tích lịch sử lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Đền thờ Kinh Dương Vương cùng với Lăng Kinh Dương Vương là di tích lịch sử văn hoá quốc gia quan trọng của vùng Luy Lâu, Kinh Bắc và của quốc gia, là dấu ấn lịch sử thiêng liêng nối sức mạnh cội nguồn dân tộc nhắc nhở con cháu luôn luôn nhớ về tổ tông.




Nhan đề : Phong trào cách mạng 1930- 1931 với đỉnh cao Xô Viết – Nghệ Tĩnh
Tác giả: Công ty Thiên Kim
Nơi xuất bản: Công ty Thiên Kim
Thời gian xuất bản: 5/10/ 2015
Địa chỉ: http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&Itemid=33&id=377

Phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô Viết – Nghệ Tĩnh
In


Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và thiên tai đã tác động nặng nề đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động hết sức điêu đứng. Thêm vào đó, các vụ bắt bớ, đàn áp của chính quyền thực dân diễn ra tàn bạo trên khắp cả nước, đặc biệt sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng Bầu không khí chính trị Việt Nam càng trở nên ngột ngạt.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và thiên tai đã tác động nặng nề đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động hết sức điêu đứng.
Thêm vào đó, các vụ bắt bớ, đàn áp của chính quyền thực dân diễn ra tàn bạo trên khắp cả nước, đặc biệt sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng Bầu không khí chính trị Việt Nam càng trở nên ngột ngạt. Vào thời điểm đó ngọn cờ giải phóng dân tộc được giai cấp công nhân, đứng đầu là Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao. Sau khi hợp nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành một chính đảng thống nhất về tổ chức và đúng đắn về cương lĩnh chính trị, đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, phát động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Mở đầu là hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, Hãng dầu Xôcôni (Sài Gòn), đồn điền cao su Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một). Tiếp đến là các cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, của 4.000 công nhân nhà máy dệt Nam Định (tháng 4 - 1930), của nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương. Cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Những cuộc đấu tranh đó là khúc dạo đầu của cao trào cách mạng rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5, lần đầu tiên một phong trào đấu tranh có quy mô toàn quốc được phát động.
Ở Nam Kỳ, công nhân nhà máy điện Chợ Quán (Sài Gòn), nhà máy xe lửa Dĩ An đấu tranh. Hòa nhịp với các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân các huyện Đức Hòa (Chợ Lớn), Cao Lãnh (Sa Đéc), Chợ Mới (Long Xuyên) và nông dân các tỉnh Gia Định, Vinh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một biểu tình đòi giảm thuế, bỏ sưu.
Ở Trung Kỳ, nông dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam đến các tỉnh cực nam như Khánh Hòa, Bình Thuận đã nổi dậy đấu tranh.
Ở Bắc Kỳ, khu mỏ Hồng Gai trở thành nơi đấu tranh quyết liệt giữa công nhân và giới chủ. Cuộc đấu tranh của nông dân đã diễn ra ở Thái Bình, Hà Nam, Kiến An.
Cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản chủ trương và phát động đã kéo dài trên một năm, diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả ba miền đất nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh. Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng ngày 1 - 5 với sự tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy và nông dân các huyện lan cận đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô Viết. Chính quyền thực dân đã thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh đó. Binh lính được điều đàn và xả súng bắn vào đoàn biểu tình, giết chết 7 người, làm bị thương 18 người và bắt đi 98 người. Như lửa đổ thêm dầu, các cuộc đấu tranh của quần chúng lao động càng trở nên quyết liệt hơn. Ngày 1 - 5 - 1930 là một mốc son trong cao trào cách mạng 1930- 1 931 . Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sức mạnh to lớn của khối liên minh công - nông đã được biểu hiện rõ ràng trong những cuộc chiến đất vang dội đó.
Sau ngày 1 - 5 cho đến tháng 8 - 1930, công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy tiếp tục đấu tranh hết sức sôi nổi. Ngày 27 - 6, được sự phốt hợp tổ chức của các Công hội đỏ, một cuộc biểu tình lớn được tổ chức với sự tham gia của hầu hết công nhân các nhà máy thuộc khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy. Ngày 2 – 8, cuộc tuần hành thị uy của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, nhà máy diêm đã kéo theo cuộc đình công hưởng ứng của công nhan nhiều nhà máy khác.
Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ -Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ kéo đến các huyện đường Can Lộc ngày 4-8, Nam Đàn ngày 6-8, Thanh Chương ngày 12-8, Nghi Lộc ngày 29-8, Nam Đàn (30-8).
Đến tháng 9 phong trào đấu tranh lên tới đỉnh điểm. Ngày 1- 9 -1930, 20.000 nông dân Thanh Chương biểu tình đòi giảm thuế, thả tù chính trị. Lính Pháp nổ súng, những đoàn ngư¬ời biểu tình kết thành đội ngũ tiến vào huyện đường, phá nhà giam, giải phóng tù nhân, đốt dinh tri huyện cùng với giấy tờ, sổ sách trong đó. Bọn hào lý, địa chủ bỏ chạy. Đại bộ phận các thôn xã thuộc huyện Thanh Chương, chính quyền tay sai tan rã. Nhân dân xã Võ Liệt (Thanh Chương) tự đứng ra tổ chức, điều hành công việc trong thôn xã.
Thắng lợi của phong trào nông dân Thanh Chương đã góp phần khích lệ các, cuộc đấu tranh ở các nới khác. Từ ngày 5-9 đến ngày 11-9 nông dân các huyện Anh Sơn, Diễn Châu, Can Lộc, Nam Đàn, Nghi Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh... nổi dậy với một khí thế mới , một quyết tam mới. Những cuộc xung đột đổ máu giữa những người biểu tình với binh lính, cảnh sát diễn ra thường xuyên hơn.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và Đông Dương, vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và đề cương cách mạng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản, Luận cương (chính trị đã xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Luận cương xác định cách mạng Đông Dương là cuộc cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa phát triển tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương thời kỳ đầu là đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến mang lại ruộng cho dân cày. Luận cương đã xác định : "Giai cấp vô sản và nông dân là hai lực lượng chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được và cuối cùng, Luận cương đã xác định phương pháp giành chính quyền là khởi nghĩa vũ trang.
Luận cương chính trị tháng 10- 1930 đã xác định được một số vấn đề có tầm chiến lược của cách mạng Đông Dương . Nó góp một phần quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, trang bị cho những ng¬ười cộng sản Đông Dương vũ khí tư tưởng sắc bén để đấu tranh thắng lợi với các loại tư tưởng phi vô sản khác.
Từ năm 1931 , thực dân Pháp và tay sai đã thực hiện một cuộc khủng bố tàn bạo ở Nghệ- Tĩnh. Đồn bốt được dựng lên, những đơn vị lính lê dương, lính khố đỏ được điều tới lệnh thiết quân luật được ban bố, cùng lúc, chúng sử dụng những thủ đoạn thâm độc như tổ chức "rước cờ vàng" "nhận thẻ quy thuận", tung các loại sách báo vu cáo chủ nghĩa cộng sản, ráo riết truy lùng, bắt bớ các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước.
Mặc dù quần chúng cách mạng đã tích cực đấu tranh chống mọi thủ đoạn đàn áp, lừa bịp của địch, nhưng do lực lượng không cân sức, phong trào Nghệ - Tĩnh dần dần đi xuống.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ- Tĩnh chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng có ý nghĩa hết sức to lớn. Cao trào cách mạng cùng sự ra đời của chính quyền Xô Viết là kết tinh sức mạnh to lớn của khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạn, "đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi sau này" (l).
Và cũng qua "cuộc chiến đấu xung thiên" của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam mà những người cộng sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới biết tới dân tộc ta. Quốc tế Cộng sản đã khẳng định : "Phong trào cách mạng bồng bột trong cả xứ Đông Dương đã góp phần tăng thêm ảnh hưởng cộng sàn trong các xứ thuộc địa, nhất là các nước phương Đông. Trong phiên họp ngày 11-4-1931. Hội nghị toàn thể lần thứ 11 Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản.


Nhan đề : Quyết định lịch sử trong vụ thảm sát Gạc Ma 1988
Tác giả: Nguyễn Hưng
Nơi xuất bản: VN Express.net
Thời gian xuất bản: 11/3/2014
Địa chỉ: http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/quyet-dinh-lich-su-trong-vu-tham-sat-gac-ma-1988-2961698.html

 

Quyết định lịch sử trong vụ thảm sát Gạc Ma 1988

“HQ 505 trúng đạn đã nghiêng, để tàu chìm thì chẳng những mất đảo mà chiến sĩ cũng hy sinh hết. Tôi phát lệnh bằng mọi giá lao tàu lên đảo”, thuyền trưởng HQ 505 Vũ Huy Lễ nhớ lại quyết định trọng đại nhất  đời binh nghiệp 26 năm trước.
·                                 Ký ức về trận chiến Gạc Ma năm 1988
Những ngày đầu tháng 3, ông Vũ Huy Lễ bận rộn hơn thường lệ. Vị đại tá, thuyền trưởng đang tất bật cho cuộc gặp đồng đội cũ trên con tàu HQ 505 ở Hải Phòng. Sau đó ít ngày, ông sẽ đi Đà Nẵng gặp lại những đồng đội khác từng có mặt trong trận hải chiến cách đây tròn 26 năm.
Nhắc đến trận chiến năm xưa, vị thuyền trưởng đã gần 70 tuổi bồi hồi nhớ lại. Năm 1988, Trung Quốc đưa quân ra chiếm bãi đá Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Ba đảo này chỉ cách nhau vài hải lý, hợp thành một cụm đảo trong nhóm đảo Sinh Tồn (quần đảo Trường Sa).
Các bãi đá này không có quân đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải đưa tàu ra bảo vệ. Cuộc chiến chính thức nổ ra ngày 14/3/1988 và chỉ kéo dài trong ít giờ buổi sáng trên cả 3 đảo.

26 năm sau trận Gạc Ma, những ký ức của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ vẫn còn nguyên vẹn. Ảnh: N.Hưng.
Theo thuyền trưởng Lễ, thực tế ngay trước khi diễn ra trận chiến không cân sức năm 1988, HQ 505 đang thực thi nhiệm vụ đưa bộ đội công binh và vật tư công trình đến đảo Đá Lớn. Vừa hoàn thành công việc thì sáng 13/3/1988, tàu nhận được lệnh đến đảo Cô Lin.
Xây đài tưởng niệm Gạc Ma
Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam vừa phát động chương trình "Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa" nhằm vận động các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước ủng hộ nguồn lực xây đền tưởng niệm 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh trong trận Gạc Ma (14/3/1988); Đồng thời hỗ trợ gia đình của những người đã hy sinh trong hai trận chiến bảo vệ Hoàng Sa (1974) và Gạc Ma thuộc Trường Sa (1988). Dự kiến, ngày 14/3, lễ phát động kêu gọi ủng hộ chương trình sẽ được tổ chức tại TP Đà Nẵng.
Vị trí  xây đền dự kiến tại khoảnh đất từ sân bay Cam Ranh về Nha Trang, Khánh Hòa. Đây là vị trí nhìn ra biển Đông, nhìn ra Gạc Ma. 
Trên đường HQ 505 di chuyển, tàu Trung Quốc tìm cách ngăn chặn, khiêu khích. 18h cùng ngày, dù bị đối phương gây nhiễu làm mất liên lạc với sở chỉ huy song tàu vẫn đến đúng vị trí và hoàn thành nhiệm vụ cắm mốc chủ quyền trên đảo Cô Lin sáng sớm 14/3.
Đe dọa và khiêu khích không thành, hôm sau tàu Trung Quốc đã tấn công vào bộ đội Việt Nam đang bảo vệ cờ trên các đảo và nã đạn vào các tàu HQ 505, 604, 605.
6h30 sáng, 3 tàu chiến Trung Quốc liên tục nã pháo vào HQ 505, đạn trúng vào buồng máy, khu thông tin, đài chỉ huy, kho tàu bốc cháy. Gặp gió mùa đông bắc thổi mạnh, máy bị hỏng nên tàu trôi xa khỏi đảo hơn một hải lý. Pháo 85, 100 ly trên tàu Trung Quốc vẫn không ngừng nã đạn khiến HQ 505 bốc cháy ngùn ngụt, thân tàu thủng, nước tràn vào các khoang, dầu trôi ra lênh láng mặt biển. Hệ thống liên lạc bị hỏng, không thể báo cáo tình hình với cấp trên.
“Lúc này HQ 505 đã nghiêng và có nguy cơ chìm. Để tàu chìm thì chẳng những mất đảo mà toàn bộ chiến sĩ cũng hy sinh, chỉ còn cách đưa tàu lên bãi cạn”, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ nhớ lại.
Ngay lập tức, ông hội ý với Ban chỉ huy tàu và yêu cầu phải sửa chữa bằng được máy móc để đưa tàu lên đảo. Trong vòng 3-4 phút, phương án này được thống nhất. Dù bị thương nhưng máy trưởng, đại úy Nguyễn Đại Thắng vẫn xông xáo chỉ đạo anh em sửa máy bằng được.
“Tàu mất điện, lái hỏng, chúng tôi phải dùng một máy tiến, máy lùi để tàu quay mũi hướng về phía đảo. Sau vài phút rồ hết công suất hai máy, tàu lao lên bãi cạn. Đến khi nghe tiếng san hô cọ rào rào và 2/3 thân tàu nằm trên bãi thì tôi biết quyết định ủn bãi đã thành công”, vị thuyền trưởng kể.
Con tàu dài gần 100 mét, rộng 28 mét vừa yên vị trên bãi thì cũng là lúc tàu chiến Trung Quốc tiếp tục nã đạn. Thuyền trưởng Lễ yêu cầu anh em hủy tài liệu mật, sơ tán khỏi tàu nhằm hạn chế thương vong, đồng thời chuyển vũ khí lên đảo chuẩn bị chiến đấu.
“Lúc đó dù lực lượng mỏng nhưng do đã án ngữ lối lên nên tôi tin là dù địch có đổ bộ chúng tôi vẫn đánh được và hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đảo”, đại tá Lễ khẳng định.

Các thương binh và chiến sĩ trong trận Gạc Ma được đưa về đất liền. Ảnh tư liệu.
Nhân lúc tàu địch rút ra xa, bộ đội trên tàu HQ 505 tổ chức dập lửa, dùng xuồng cao su sang đảo Gạc Ma cứu vớt công binh, bộ đội của tàu HQ 604 bị chìm và đưa được 44 chiến sĩ trong đó có thương binh, tử sĩ về an toàn.
Nhớ lại tình thế ngàn cân đó, thuyền trưởng Lễ cho rằng, đời binh nghiệp có nhiều giây phút phải lựa chọn song quyết định lao tàu lên đảo là quyết định trọng đại nhất của ông. HQ 505 sau đó hiên ngang trên đảo Cô Lin, cờ tổ quốc tung bay trên tàu, dù nguy nan còn kéo dài hàng tháng trời.
Chín cán bộ chiến sĩ bám trụ ở Cô Lin do thuyền trưởng Lễ chỉ huy luôn trong trạng thái chiến đấu. Ngày nào đối phương cũng cho tàu chiến đến đe dọa. “Có ngày chúng quấy nhiễu 3-4 lần, dùng loa réo tên tôi ra hàng. Nhưng điều đó khiến tôi và anh em càng quyết tâm bảo vệ đảo”, ông kể.
Không chỉ căng thẳng về tinh thần, do thực phẩm cạn, tiếp tế khó khăn, cứ đêm đến vài chiến sĩ phải đốt đuốc xuống bãi san hô bắt cá. Có hôm ăn bị ngộ độc, nhiều người đau buốt xương khớp, 3-4 ngày mới khỏi.
Dù có thể rút về đảo Sinh Tồn nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe nhưng thuyền trưởng Lễ đã bám trụ lại đảo Cô Lin cùng các chiến sĩ đến tháng 6/1988, khi các hành động khiêu khích của hải quân Trung Quốc đã giảm và chủ quyền trên đảo Cô Lin được giữ vững.
Đầu năm 1989, tàu HQ 505 và thuyền trưởng Vũ Huy Lễ được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều chiến sĩ khác được thưởng huân chương chiến công các hạng. Đích thân Tổng bí thư Đỗ Mười khi trao tặng danh hiệu đã khẳng định, tấm gương hy sinh, ý chí kiên cường dũng cảm, tinh thần mưu trí sáng tạo, tình yêu thương đồng đội của thuyền trưởng và tập thể cán bộ chiến sĩ tàu HQ 505 là niềm cổ vũ lớn lao với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước trên quần đảo Trường Sa.
Sau trận hải chiến ở cụm đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao, phía Việt Nam chìm 2 tàu vận tải, 64 chiến sĩ hy sinh, 9 người bị bắt làm tù binh. Trung Quốc chiếm giữ đảo Gạc Ma, Việt Nam giữ được những đảo còn lại.



THỜI NHÀ LÝ ( 1010 – 1226 )
Nhan đề : Đòn đánh phủ đầu khiến quân Tống choáng váng
Tác giả: Khánh Lam
Nơi xuất bản: Báo điện tử Kiến thức
Thời gian xuất bản: 13/ 6/ 2014
Đòn đánh phủ đầu khiến quân Tống choáng váng
(Kiến Thức) - Trong nhiều thắng lợi trước giặc phương Bắc của tiền nhân, chiến thắng của Lý Thường KiệtHYPERLINK "http://kienthuc.net.vn/tham-cung/hinh-anh-day-tu-hao-ve-lich-su-chong-giac-phuong-bac-1-350755.html" có nét đặc sắc riêng biệt với tư tưởng đánh đòn phủ đầu.
Trị loạn từ lúc còn manh nha
Khoảng đầu những năm 1070, triều đình nhà Tống quyết định xâm lược nước ta. Mục đích của việc phát động chiến tranh nhằm giải quyết mối nguy cơ về đối nội và đối ngoại. Tống Thần Tông và Tể tướng Vương An Thạch chủ trương “nếu đánh thắng thì thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”.
Do vậy nhà Tống chuẩn bị chiến tranh rất chu đáo. Vua Tống lập ra “An Nam chiêu thảo sứ” với Quách Quỳ làm Chánh tướng, Triệu Tiết làm Phó tướng. 10 vạn quân, 1 vạn ngựa và 20 vạn dân phu được tập trung để chuẩn bị phát động chiến tranh. Quân đội và lương thảo chuẩn bị cho chiến tranh được tập trung ở các căn cứ Ung, Khâm, Liêm gần biên giới nước ta.
Những hành động của vua quan nhà Tống đã được các thám báo của ta tức tối báo về triều đình. Trong triều lúc này Lý Thường Kiệt làm Thái úy nắm quân đội. Ông chủ trương “Ngồi im đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc”. Vua Lý Nhân Tông chuẩn y cho Thường Kiệt và Tông Đản đem 10 vạn quân sang đánh phá châu Ung, Khâm, Liêm bên đất Tống.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vương An Thạch nhà Tống cầm quyền, tâu với vua Tống rằng nước ta bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi và Lưu Di làm Tri châu Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với nước ta.
Vua biết tin sai Lý Thường Kiệt, Tông Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân thủy, quân bộ đều tiến. Thường Kiệt đánh các châu Khâm, Liêm; Đản vây châu Ung. Đô giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu bị Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây) phá tan được, chém Thủ Tiết tại trận. Tri châu Ung châu cố thủ không hàng.

 Quân nhà Lý tấn công sang đất Tống. Ảnh chụp từ sách "Kể chuyện lịch sử Việt Nam bằng tranh".
Quân ta đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành mới hạ được… Bọn Thường Kiệt bắt sống dân 3 châu ấy đem về”.
Các nguồn tư liệu khác cho biết thêm là khi mang quân vào đất Tống, Lý Thường Kiệt cho treo bảng cáo thị nêu rõ lý do xuất quân là để triệt tiêu những cơ sở chiến tranh của triều Tống chứ không quấy phá dân lành nên tranh thủ được ít nhiều sự ủng hộ của dân Tống.
Quân Lý cũng thực hành triệt phá các cơ sở cầu cống, kho tàng lương thảo, vũ khí mà nhà Tống đã tích trữ ở 3 châu kể trên. Mục đích của việc này nhằm phá hoại một phần tiềm lực chiến tranh của nhà Tống để bẻ gãy mũi nhọn của địch.
Nhờ thành công của chiến dịch này, quân Tống đã phải vất vả chuẩn bị thêm 1 năm nữa mới mang quân sang đánh Đại Việt được. Trong 1 năm đó, nhà Lý đã tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng về mọi mặt và xây dựng phòng tuyến vững chắc ở sông Như Nguyệt.
Nắm thế chủ động hoàn toàn
Cùng với việc chuẩn bị, Lý Thường Kiệt cũng rất chú trọng sử dụng thám báo trên đất Tống. Sách Những trận đánh hay trong lịch sử dân tộc của Nxb QĐND cho biết: “Lý Thường Kiệt đặc biệt chú trọng tổ chức thám báo trên đất Tống. Ông đã dùng nhiều cách trinh sát như: lấy dân thuyền chài đi sang đất Tống sống lẫn với dân Tống, giả làm nhà sư, lái buôn… để vào sâu trong nội địa nước Tống do thám tình hình. Do công tác trinh sát của ta tổ chức tốt nên nhiều thám tử của ta đã hoạt động mạnh khiến triều đình nhà Tống phải lo ngại.
Tháng 4/1076, Tống triều chỉ thị cho các lộ ven biển Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến: “Khi mộ quân, phải đề phòng bọn gian trà trộn vào”. Tháng sau đó lại có nhắc nhở: “Nghe tin Giao Chỉ cho nhiều kẻ gian tới do thám vùng Lưỡng Quảng. Vậy các chỉ huy, các tướng lĩnh phải coi chừng, chớ để nó dò biết được phép công, thủ, tiến thoái của ta”.

 Quách Quỳ và các tùy tướng rầu rĩ trong thế tiến thoái lưỡng nan ở phòng tuyến Như Nguyệt. Ảnh chụp từ sách "Kể chuyện lịch sử Việt Nam bằng tranh".
Cũng nhờ có thám báo, nhà Lý biết được âm mưu của nhà Tống định liên kết với Chiêm Thành để cùng đánh ta. Vẫn với tư tưởng đánh đòn phủ đầu, Lý Thường Kiệt lại đem quân vào đánh Chiêm Thành ở châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh.
Đại Việt sử ký toàn thư chép việc này ngắn gọn: “Mùa thu, tháng 8, sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các quân đi đánh Chiêm Thành, không thắng được. Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh, và chiêu mộ dân chúng đến đấy ở”.
Như vậy trước khi bước vào trận đấu chính với quân Tống, quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã thực hiện hai đòn phủ đầu vào quân Tống và quân Chiêm Thành. Đánh vào 3 châu Ung, Khâm, Liêm là 3 nơi tích trữ lương thảo quân trang quân dụng của nhà Tống nhằm phá thế mạnh của địch còn đánh Chiêm Thành là để cảnh báo cho Chiêm Thành biết ta đã có chuẩn bị buộc họ phải xem xét lại việc liên kết với Tống đánh ta. Thực tế trong cuộc kháng chiến chống Tống sau đó, quân Chiêm Thành đã không dám xuất binh liên thủ với Tống vì biết ta đã có đề phòng. 
Cuộc kháng chiến diễn ra sau đó đã được nhiều sử sách đề cập tới. Quách Quỳ bị chặn đứng ở phòng tuyến Như Nguyệt, tiến không được lùi không xong mà quân thì thiếu lương ăn và bị chết vì dịch bệnh, và bị các toán quân Đại Việt tiêu hao, tình thế ngày càng khốn đốn.
Nắm bắt cơ hội, Lý Thường Kiệt sai sứ giả sang thuyết khách để giảng hòa. Hết cách Quách Quỳ đành nhận lời giảng hòa để rút lui.
Như vậy cuộc kháng chiến chống Tống năm 1076-1077 nổi bật lên tư tưởng chiến lược chủ động của Lý Thường Kiệt. Ông chủ động đánh phủ đầu, chủ động lập phòng tuyến và khi thấy có cơ hội để kết thúc chiến tranh lại chủ động đề nghị giảng hòa. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, duy nhất lần này quân nước ta chủ động đánh trước khi phát hiện đối phương có âm mưu xâm lược ta và đòn đánh phủ đầu này đã khiến địch quân choáng váng.


6. THỜI BẮC THUỘC
Nhan đề : CUỘC KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Tác giả : Công ty Thiên Kim
Nhà xuất bản : Công ty Thiên Kim
Thời gian xuất bản : 28/9/ 2015

CUỘC KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (40CN) là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc toàn diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong kiến phương Bắc ở đầu công nguyên.
Cuộc khởi nghĩa ấy do bà Trưng Trắc phát động cùng em gái là Trưng Nhị, người có công lao cùng chị và của rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh trong hàng ngũ đội quân của Hai Bà.
Đó là cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ thời kỳ ấy. Chấm chấm dứt giai đoạn thống trị của phong kiến phương Bắc lần thứ nhất dài tới 246 năm (207 TCN - 39 CN).
Sử nước ta viết: ''... Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều có tướng dũng lược, căm giận Tô Định chính lệnh hà khắc tàn ngược tụ họp người các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện hưởng ứng , cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại, thu lại hết đất cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu..."
Cũng bởi ý chí anh hùng hào kiệt mà trải qua hàng nghìn năm và mãi mãi về sau, sựn ghiệp và danh tiếng của Hai Bà còn lưu danh. Những sự kiện lịch sử về hai Bà và cuộc khởi nghĩa năm 40 CN đánh đuổi Tô Định, năm 42 CN chống Mã Viện xâm lược đã theo dòng thời gian chuyển hóa thành các sự tích văn hóa, vào huyền thoại, đi vào tâm linh và tín ngưỡng cộng đồng người Việt Nam.
Những nơi Hai Bà đã đi qua, những đồn lũy và chiến trận do Hai Bà Trưng cùng các vị tướng lĩnh lập nên cũng theo đó mà trở nên nơi đền miếu thiêng liêng thờ cúng khói hương không dứt. Nay là các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Vĩnh Phúc.

Hai Bà là con gái Lạc Tướng huyện Mê Linh, hậu duệ đời thứ 25 của Vua Hùng- họ Lạc. Thân mẫu của Hai Bà tên là Trần Thị Đoan (tục danh là bà Man Thiện), có nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ.
Ngày 01 tháng 8 năm Giáp Tuất (14.CN) bà Man Thiện sinh một lần được hai con gái. Vì là nhà tằm tơ, nên 3 năm sau, mới đặt tên cho cô chị là Trắc (lứa đầu - ''lứa chắc'' theo cách tính của nhà nuôi tằm), cô em là Nhị (''lứa nhì''- lần thứ hai)
Năm 19 tuổi, cha mẹ gả cô chị là Trắc, lấy con trai quan Lạc tướng huyện Chu Diên là Thi Sách tức là năm Canh Thìn (32. CN). Vợ chồng đoàn tụ mới được vài năm thì Thi Sách bị Tô Định giết chỉ vì con hai nhà tướng kết hôn với nhau, trở thành một lực lượng lớn, không có nơi cho sự thống trị của nhà Hán.
Căm giận quân giặc bạo ngược, vì nợ nước nay lại thêm mối thù nhà, bà Trắc đã cùng với em là Nhị phát động trong toàn quận Giao Chỉ, tập hợp các Lạc hầu, Lạc tướng, kêu gọi quân sĩ và nhân dân nổi lên cùng đánh giặc. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam được tin quận Giao Chỉ khởi nghĩa đều nổi lên hưởng ứng.
Cuộc khởi nghĩa ấy chia ra các giai đoạn như sau:
I- THỜI KỲ TRƯỚC NGÀY TUYÊN BỐ KHỞI NGHĨA:
Sau khi ông Thi Sách bị giết, bà Trắc quyết chí phục thù trả oán. Bà tiến hành tổ chức chứa tích lương thực, vận động thu dùng các anh hùng hào kiệt trung thiên hạ, những người cùng chí hướng, chiêu binh tuyển tướng ở các địa phương, nên người theo về ngày một đông. Lúc đó thuộc địa bàn Sơn Tây cũ có:
Liên Chiểu được một người Phù Sa được một người (sau đổi 1à Phần Sa, rồi Các Sa- xã Trung Kiên huyện Vĩnh Tường)
Huyện Bạch Hạc có:
- Xã Văn Trưng được 1 người (nay là thôn Văn Trưng xã Tứ Trưng huyện Vĩnh Tường)
- Xã Đại Tự được 1 người (nay thuộc huyện Yên Lạc).
- Xã Cẩm Viên được 1 người (nay là thôn thuộc xã Đại Tự)
- Xã Phủ Yên được l người (nay là thôn thuộc xã Yên Lập huyện Vĩnh Tường)
Huyện Yên Lạc có:
Xã Bình Lỗ được l người (có lẽ 1à Tề Lỗ huyện Yên Lạc)
- Xã Mạnh Lân được một người (sau là Kim Lân xã Hồng Châu)
- Xã Thọ Lão được một người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê Linh)
- Xã Yên Lão được một người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê Linh)
- Xã Vân Canh được 1 người (nay thuộc vào thị trấn huyện Bình Xuyên)
Huyện Lập Thạch có:
- Xã Vân Nhưng được 3 người (nay thuộc xã Tân Lập)
- Xã Ân Hộ được 3 người (tục danh làng Họ, nay thuộc xã Tham Sơn)
- Xã Vụ Cầu được 1 người (tục danh làng Cầu, nay thuộc xã Tam Sơn)
Tỉnh Hà Tây có 3 huyện có người ứng nghĩa:
Huyện Tiên Phong có:
Xã Kim Bí được 1 người
- Xã Tân Hoa được 1 người
Huyện Yên Sơn có:
- Xã Bối Khê được 1 người
- Xã Hữu Quang được 1 người
Huyện Thạch Thất có:
- Xã Tuy Lộc được l người
Để đảm nhận công việc trọng đại ấy, bà Nhị được chị gái cất nhắc làm chức ''Bình khôi'' sau khởi nghĩa phong làm ''Bình khôi công chúa''- tức là vị công chúa đứng đầu thu phục thiên hạ). Rồi gửi tờ hịch chiêu dụ mọi người trong toàn quận Giao Chỉ, bởi vậy các nướng, nữ quân chiếm đa phần trong tổng số lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa.
Nhiều thư tịch đời sau chép về khí thế ra quân của những ngày ấy mà sự tích hầu hết đã trở thành huyền thoại: ''Đương thời nam nhi thao lược vị hữu kỳ nhân; Nữ tướng soái binh thần linh phát động''. Nghĩa là: Lúc ấy nam nhi tài giỏi chưa có mấy người; Nữ tướng soái binh như có thần thiêng thúc giục. Bởi vậy, chỉ 15 ngày sau tướng sĩ mọi miền đã tìm đến tụ nghĩa. Đồng thời bà Trắc đã đến nhiều địa phương vận động khởi nghĩa. Nơi ấy ngày nay đều có di tích thờ cúng ghi nhận. Bà cũng đã vận động lên miền thượng lưu sông Đáy, giáp gianh giữa 2 huyện Tam Dương - Lập Thạch ngày nay tập hợp lực lượng. Nơi bà hội quân với các bà Quý Lan (An Bình phu nhân) và Ngọc Kinh công chúa là di tích ''Bãi Hội'' ở làng Đông Định, xã Thái Hoà, Lập Thạch. Nơi ấy nay có đền thờ Bà tạo thành một vùng căn cứ rộng lớn ở các xã Liễn Sơn, Thái Hoà, Liên Hoà, Hợp Lý huyện Lập Thạch và các xã Hoàng Hoa, Đồng Tình, An Hoà huyện Tam Dương.
Các di tích trong khu vực sông Đáy.
1- Xã Liên Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 1 di tích
2- Xã Liễn Sơn huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 2 di tích
3- Xã Thái Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 3 di tích
4- Xã Bồ Lý huyện Lập Thạch (Vực Truông): 1 di tích
5- Xã Hợp Lý huyện Lập Thạch (bờ trái sông): 1 di tích
6- Xã An Hoà huyện Tam Dương (bờ trái sông): 3 di tích
7- Xã Đồng ranh huyện Tam Dương (bờ trái sông): 6 di tích
8- Xã Hoàng Hoa huyện Tam Dương (bờ trái sông): 2 di tích
Cộng xã: 19 di tích
Tháng Giêng năm Canh Tý (40CN), tất cả các tướng ở mọi vùng đều đã tiến quân về họp lại ở thành Phong Châu sông Bạch Hạc để khao thưởng các quân sĩ.
II- KHỞI NGHĨA Ở CỬA SÔNG HÁT
Sau cuộc tổng tập hợp quân đội ở Phong Châu, Hai Bà đã cho quân đội vượt sông sang lập đàn thề ở bãi cát dài cửa sông Hát.
Nơi ấy nay thuộc xã Hát Môn huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây. Địa điểm cách đê hữu sông Hồng 6km, gần chỗ cửa Hát tách ra từ sông Hồng. Tại Hát Môn, Hai Bà cho quân sĩ dựng đàn tế cáo trời đất, tuyên bố khởi nghĩa. Lời tuyên như sau:
''Trời sinh một người làm tông chủ của vạn vật trong trời đất. Muôn vật ràng buộc vào đấy, cỏ cây quan hệ về đấy. Trải các triều trước các vị đương thiên tử đều là bậc thánh minh, khiến cho triều đình có đạo Yên dân lo việc nước, đức hoá mở mang, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có người hơ khác tên là Tô Định, lòng dạ chớ dê, hăm doạ 4 phương, tham tàn bạo ngược, trời, đất, thần, người đều căm giận.
Thiếp là cháu gái của Vua Hùng thuở trước, hôm nay đau lòng thương dân vô tội, dấy nghĩa trừ tàn nguyện xin các vị thần linh hội họp tại đàn này chứng giám và phù hộ cho thiếp. Thiếp là Trưng Nữ dấy binh dẹp giặc, che chở dân lành, thú phục lại muôn vật cũ của tổ tông. Không phụ ý trời, thoả nguyện nơi đền miếu của các bậc đương các đời, không phụ sự trông đợi của tổ phụ nơi chín suối''
Tế xong, Hai Bà phân chia các đạo quân, tổ chức quân ngũ. Riêng số các nữ tướng, nữ binh chia làm 2 đội, phong cho các chức:
1- Lão Tiên công chúa nắng giữ ''Trung quân nội thị''
2 - Công chúa Cẩn Hạnh nắm giữ ''Tiền quân nội thị'' có 500 quân
3- Công chúa Huệ Đức và Công chúa Trang ranh nắm giữ quân ''nội thị binh nhung''
4- Công chúa Ả Chàng, Ả Chạ (vì Lê Ngọc Thanh cùng danh hiệu) nắm giữ "Tả quân nội thị", quân nữ có 500 người
5- Thuỵ công chúa và công chúa Minh Trinh nắm giữ ''Hữu quân nội thị''. Quân nữ có 500 người
6 - Công chúa Minh Nương nắm giữ tiền quân - quân nữ có 100 người
7 - Công chúa Tráng Cẩn nắm giữ ''Tả quân nội thị''. Quân nữ có 100 người
8- Công chúa Bình Khôi (tức bà Nhị) nắm giữ toàn bộ các vệ ''Nữ quân nội thị...
Còn các tướng nam đều cớ phong chức thu nạp tham gia khởi nghĩa.
Sau đó bà Trắc cùng các tướng sĩ bái lạy trời đất, thống lĩnh quân dân, tiến quân về thành Long Biên đánh Tô Định.
III- CUỘC TIÊN QUÂN MÙA XUÂN NĂM CANH TÝ (42.CN) ĐẠI THẮNG:
Trên đường tiến quân, Hai Bà dẫn toàn bộ quân đội về làng Hạ Lôi dựng đồn đóng quân.
Đêm đó ở Hạ Lôi, (tên thời nội thuộc Hán là Kỳ Họp) có hơn 10 vị tướng dưới quyền được chọn làm tướng ''thủ túc'' (thân cận, gần gũi như tay chăn), và có 17 nữ tướng có tài trí ngày đêm thường trực ở bên cạnh Trưng Vương. Ngày 07 tháng Giêng, bà Trưng mở tiệc lớn khao quân ở Hạ Lôi 10 ngày, rồi chia quân làm 5 đạo.
- Đi tiên phong là Đại Vương Đông Hối
- Trung quân là Nữ Vương Trưng Trắc (ở giữa)
- Tả quân là Minh công dực thánh (?) (bên trái)
- Hữu quân là Lương công dực thánh (?) (bên phải)
Hậu quân là Hiến công (?) và Nhị nương công chúa
Tất cả cùng tiến về thành Long Biên đánh Tô Định. Cảnh tượng ngày xuất quân thật oai hùng: ''Cờ xí đầy đất, chiêng trống vang trời, tướng nam lẫm liệt, tướng nữ lạnh lùng''. Trước sức mạnh như vũ bão của đội quân Hai Bà, quân Hán không kịp tổ chức nghênh chiến, chống đỡ, nên khi quân đội của Hai Bà tấn công, quân của Tô Định chỉ còn biết thua chạy và bị giết ''máu chảy thành ao, xương tụ thành gò'', xác giặc chồng chất làm cho ''dựng sông nghẽn chảy'', Tô Định bị đao chém sát thương. Cuối cùng thì Tô Định nhanh chóng rút chạy về Trung Quốc, chịu tội với triều đình nhà Hán. Chẳng bao lâu, trong toàn quận Giao Chỉ, nghĩa quân tổng công kích, thu phục được 65 thành.
IV VƯƠNG TRIỀU HỌ TRƯNG.
''Đại Việt sử ký toàn thư" chép là ''Trưng Nữ Vương Kỷ''
Đất nước giải phóng, Hai Bà thu quân về thành Phong Châu. Bà Trưng Trắc lên ngôi Vương, đứng đầu bộ máy nhà nước độc lập tự chủ. Tiến hành phong thưởng thứ bậc công thần cho các tướng sĩ. Cắt cử một số tướng sĩ trở về nơi căn cứ cũ của mình xây dựng doanh điện phòng vệ làm hậu cứ cho triều đình.
Ở trung ương, xây dựng bộ máy nhà nước vương triều gồm có 2 ban ''văn- võ''. Tất cả đều có chữ ''tiết ché' (nghĩa là ''chỉ huyết), đặt quan chia chức đảm nhận công việc Nhà nước. Lại xây dựng 1 ''Sở hành cung'' ở xứ đầu voi làng Hạ Lôi làm nơi ''Sở thiết triều'' (nơi bàn việc nước lưu động). Phía sau xây thành bảo vệ, đời sau gọi là ''thành ống''. Đồng thời bà Trưng Nhị dựng hai luỹ ở Cư An, đắp thành Đền, tất cả đều nằm ở phía Tây Bắc ''hành cung'' Hạ Lôi trưng sự bố phòng bảo vệ.
Sau đó, bà Trưng Trắc đời đô về Hạ Lôi, định trị sở việc nước chính thức là ''hành cung'' xứ đầu voi. Nay là đền Hai Bà. Đất ấy đời Hán là làng Kỳ Hợp huyện Chu Diên. Từ đó chính trị ổn định, việc nước trong sáng êm đềm, lòng dân theo phục.
V- CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÃ VIỆN NĂM 42.CN.
Năm 41.CN, vua Hán Quang Vũ được tin triều đình Lĩnh Nam đã được xác lập, dơ Bà Trưng Trắc làm tôn quân, nên tức tốc hạ lệnh cho các quận, châu, huyện phía nam là Trường Sa, Hợp Phố và một số nơi thuộc Giao Chỉ sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, mở đường thông các núi khe, chứa thóc lương để dự phòng cho cuộc xâm lăng sắp tới Ngay sau đó, Hán Quang Vũ lại sai Tô Định dẫn 5 vạn quân đi trước trở lại Giao Chỉ. Mã Viện vui mừng được Hán Vũ Đế cử làm Phục Ba tướng quân, cho tổng chỉ huy cùng với phó tướng là Phù Lạc Hầu Lưu Long, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân đem 30 vạn quân tiến vào nước ta để đánh Trưng Vương.
Quân Hán qua cửa ải Ngọc Quang
1- Cuộc Chiến ở thành Lạng Sơn
Được tin bái về, ở thành Hạ Lôi, Trưng Trắc cử trưng Nhị và hai đại tướng đem quân lên đánh chặn giặc, giết chết được Tô Định ngay từ trận đầu giao chiến. Thấy tình thế thất lợi, sau khi qua ải Ngọc Quan, Mã Viện và Lưu Long dẫn quân đến thành Lạng Sơn lập doanh luỹ cố thủ thanh thế rất to.
Để chặn đánh quân địch từ ngoài biên ải, Trưng Trắc dẫn toàn bộ đại quân lên thành Lạng Sơn cự chiến Mã Viện là viên tướng già (lúc này Viện đã ngoài 70 tuổi) giảo quyệt, biết trưng Trắc đã đem hết quân đội lên đánh thành Lạng Sơn nên ra lệnh cho quân sĩ cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian tiếp chiến, khiến đại quân của Hai Bà Trưng gặp bất lợi. Mã Viện chơ Lưu Lang coi giữ 25 vạn quân ở lại cố thủ thành Lạng Sơn, cầm chân quân đội của Hai Bà Trưng dưới thành, bố phòng ở những nơi hiểm trọng, không chịu ra đánh. Đại quân của Hai Bà do vậy phải kìm lại vây thành.
2- Âm mua của Mã Viện
Trong khi tình thế chiến trận kéo dài im ắng, thì Mã Viện dẫn 5 vạn quân bí mật xuất phát, không kể ngày đêm, cướp đường mà đi, cấp tốc chỉ trong 5 ngày sau đã đến khu Thanh Trước, dựa vào địa hình nụ; mà đồn binh, tích trữ lương thảo. Rồi Mã Viện trước hết tấn công kho quân lương ở Nội Phật dơ bà Thánh Mẫu Dưỡng quản lĩnh, đánh tan cơ sở hậu cần của quân đội Hai Bà. Sau đó Mã Viện tấn công thành Cự Triền.
Cự Triền là một thành lớn do Bà Trưng Nhị tổ chức xây đắp để phòng thủ ở mặt tây bắc cho đô thành Mê Linh. Ở mặt trận này tuy quân đội của Bà Trưng đã tiến lên Lạng Sơn, nhưng do thành được xây đắp kiên cố nên Mã Viện không dễ dàng hạ nổi. Địa hình lại hoàn toàn bất lợi cho quăn Hán, vì thành được xây đắp trên gò Dền giữa cánh đồng Dền, bốn bề đồng không nước ngập, địa hình trở nên phức tạp. Để lấy điểm tựa tập kết quân sĩ tấn công thành Dền, Mã Viện đã phải hấp tấp đưa vàơ địa thế sẵn có của một quả gò nhỏ, gọi là gò Viên (dân đã quen gọi là gò Vượn) thuộc cánh đồng Vượn) đắp trong một đêm phải xong.
Một trận chiến quyết liệt đã diễn ra, cuối cùng thì thành Dền cũng bị hạ. Đình Cư An xã Tam Đồng, di tích thờ Bà Trưng Nhị có đôi câu đối viết về sự kiện này. Như sau:
Triền thuỷ ba bình phần tử y hi hàm thánh trạch
Viên thành nguyệt hiểu đống yểm ẩn ước hiện thần quang
Nghĩa là: Sóng nước quanh đồng triền (đồng Dền) đã yên, cây cối nghĩ rằng có công ơn của Thánh Trăng soi thành Vượn, bước tới gần gò đống như có như không, cũng bày ra biến hoá rõ ràng. Sau khi hạ thành Cự Triền, Mã Viện không mấy khó khăn khi tiến về đánh thành Hạ Lôi, đào mộ cha mẹ Hai Bà, yết cung điện. Kinh đô Mê Linh phút chốc chìm trong máu lên. Sau đó, Mã Viện lại kéo quân lên thành Lạng Sơn, trong đánh ra, ngoài hợp chiến cùng tiến đánh Hai Bà Trưng từ hai phía.
3- Trận chiến ở Lãng Bạc
Sau khi bị tổn thất ở thành Lạng Sơn, lại bị quân Hán bức bách ở mặt trận phía trước và phía sau, nên Bà Trưng rút quân trở về. Đội quân hai bên gặp nhau ở Lãng Bạc, địa điểm ở vùng 2 huyện Tiên Du- Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Một trận quyết chiến đã xảy ra. Sử ''Toàn thư" chép: ''Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui về giữ Cấm Khê''
4- Công cuộc cố thủ cấm Khê
Sau khi rút khỏi mặt trận Lãng Bạc, Trong Vương biết là thành Cự Triện và kinh đô Mê Linh đã bị thất thủ, Hai Bà tiến lên vùng Cấm Khê thủ hiểm, tính kế lâu dài. Cấm Khê (sử cũng chép là Kim Khê) là vùng đất ngập nước bên bờ sông Cà Lồ từ làng Gia Phúc (xã Xuân Đài), qua làng Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao của xã Vân Đài, xã Tiên Đài của tổng Vân Đài huyện Yên Lạc, phủ Vĩnh Tường triều Nguyễn, đến xã Can Bi tổng Xuân Lãng huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Yên. Trong đó các làng Cẩm La, Phúc Lộc, Yên Nội, Đống Cao đời Lê trở về trước thuộc xã Vân Đài hoặc Quan Đài cùng với các xã Xuân Đài Tiên Đài là nơi tập trung nhất về di tích thờ cúng Hai Bà Trưng.
Ở cấm Khê, quân Hai Bà bị vây hãm mấy tháng liền. Phía trước không còn đường tiếp lương, cỏ ngựa, phía sau không có quân cứu viện lại biết thành trì lăng mộ ở nhà (Hạ Lôi) đã bị Mã Viện phá hết, nhưng không thể tự phá trận để thoát khỏi vòng vây. Biết rằng cơ nghiệp do chị em gây dựng bấy nay sẽ khống còn, Bà Trưng Trắc tự khẳng định với mình rằng:
Sinh ra làm người, thà làm quỷ nước Nam, há chau đã bị trói tay bắt sống, bị người Hán phương Bắc làm nhục?
Thế là Bà chỉ huy toàn quân quyết đánh một trận, quân - thần - tướng - tá đều bị vây, bị giết ở Cấm Khê. Số còn lại trở về nơi doanh địa cũ rồi lần lượt bị Mã Viện đánh bại. Thu thắp trong điền dã của chúng tôi trong khu vực xã Văn Tiến huyện Yên Lạc, thấy có như sau:
- Gò Hang: Thống kê năm 1938 của xã Vân Đài thì trong làng ''có lái đống gọi là gò Hang, nhưng không biết dưới có hang không''.
Ngày nay gò Hang hiện còn, thuộc thôn Yên Nội. Diện tích khoảng 5-6 sào Bắc Bộ, nhân dân ở đây gọi là gò Cánh Tiên. Hang có cửa vào xây cuốn vòm như hình chớp bia bằng gạch bìa, ở thành có vạch ô quả trám. Cửa hang nổi lên trên mặt đất nay mới bị lấp. Chúng tôi nghĩ rằng người xưa xây như một cái am rồi mới gánh đất đổ lên thành vòm. Gò có ''hang'' ở dưới nên gọi ''Gò Hang''. Vì vậy đất trên gò gồm nhiều loại, xồm xộp không hoàn thổ và cỏ không mọc được. Cũng chưa thấy khai thác trồng trọt. Nay mới lập 1 am nhỏ để mấy nhà bên cạnh gò thắp hương.
Có thể dơ có gò Hang là một ngôi mộ cổ dùng gạch xây đời Hán mà vùng này có địa danh Hi Sơn. Tất nhiên còn chờ ở các tài liệu khảo cổ trong tương lai. Xung quanh gò Hang còn các địa danh: Thầy Vang, Chùa Tranh, Giếng Tó, Gò Bắc Bếp; Gò Tổng Binh, Gò Cơn Ngựa.
Thầy Vang: Chữ ''Thầy'' theo cách giải thích của địa phương nghĩa là ''bờ lũy''. Thầy Vang nghĩa là bờ lũy Vang. Chữ Vang là địa danh thuộc thôn Yên Nội.
Chùa Tranh: Tên chữ là ''Phúc Lâm Tự''. Chùa không thờ bằng tượng Phật mà thờ bằng ''Tranh Phật''. Chùa Tranh thuộc thôn Đống Cao ở sau đình Đống Cao. Là một hiện tượng hiếm thấy.
Giếng Tó: Là giếng ở trước đình Đống Cao. Tang và thành giếng làm bằng đất thớ màu vàng. Nước giếng rất trong
Gò Bắc Bếp: Địa danh thuộc thôn Đống Cao, ở cạnh đình Đống Cao. Đào yên tìm thấy nhiều tro bếp và các ''ông đầu rau''.
Gò Con Ngựa: ở sau đình Đống Cao, cũng gọi là gò ''Đồng Cũ''. Trống canh tác nhân dân địa phương tìm thấy nhiều gạch bìa cổ, có vạch. Bờ móng xây bằng vữa đất, xếp từng lượt khi cày sâu vẫn bật gạch tên.
Dưới làng Vân Đài là làng Tiên Đài được nhân dân giải thích là ''Đài quan sát'' ở phía trước. Làng này xưa chỉ có một họ Trần.
Làng Xuân Đài, địa danh thời cổ là làng Liễu. ở đây có gò ''Tổng binh'', nơi cớ đền Gia Phúc thờ Hai Bà Trưng. Cả làng xưa chỉ có một họ Phạm.
Như vậy xã Văn Tiến ngày nay gồm ''3 làng Đài'' xưa là: Tiên Đài, Xuân Đài và Vân Đài (hoặc Quan Đài gồm: Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao, Yên Nội)
Toàn bộ các cánh đồng cấy lúa trồng màu vùng này xưa kia là vùng đầm lầy bên bờ sông Cà Lồ. Sau đê sông Cà Lồ bị vỡ vào thời Tự Đức, nên bị bồi lấp nay thành đồng ruộng. Nay là ruộng đất các xã Nguyệt Đức, Văn Tiến.
  
Về giai đoạn cuối cùng của cuộc khởi nghĩa ở Cấm Khê, sử CM chép: ''Trưng Vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ thếch, đều bị thất trận chết. Sự nghiệp anh hùng cứu nước của họ Trưng đến đây là kết thúc.




6. THỜI BẮC THUỘC
Nhan đề : CUỘC KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Tác giả : Công ty Thiên Kim
Nhà xuất bản : Công ty Thiên Kim
Thời gian xuất bản : 28/9/ 2015

CUỘC KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (40CN) là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc toàn diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong kiến phương Bắc ở đầu công nguyên.
Cuộc khởi nghĩa ấy do bà Trưng Trắc phát động cùng em gái là Trưng Nhị, người có công lao cùng chị và của rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh trong hàng ngũ đội quân của Hai Bà.
Đó là cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ thời kỳ ấy. Chấm chấm dứt giai đoạn thống trị của phong kiến phương Bắc lần thứ nhất dài tới 246 năm (207 TCN - 39 CN).
Sử nước ta viết: ''... Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều có tướng dũng lược, căm giận Tô Định chính lệnh hà khắc tàn ngược tụ họp người các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện hưởng ứng , cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại, thu lại hết đất cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu..."
Cũng bởi ý chí anh hùng hào kiệt mà trải qua hàng nghìn năm và mãi mãi về sau, sựn ghiệp và danh tiếng của Hai Bà còn lưu danh. Những sự kiện lịch sử về hai Bà và cuộc khởi nghĩa năm 40 CN đánh đuổi Tô Định, năm 42 CN chống Mã Viện xâm lược đã theo dòng thời gian chuyển hóa thành các sự tích văn hóa, vào huyền thoại, đi vào tâm linh và tín ngưỡng cộng đồng người Việt Nam.
Những nơi Hai Bà đã đi qua, những đồn lũy và chiến trận do Hai Bà Trưng cùng các vị tướng lĩnh lập nên cũng theo đó mà trở nên nơi đền miếu thiêng liêng thờ cúng khói hương không dứt. Nay là các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Vĩnh Phúc.

Hai Bà là con gái Lạc Tướng huyện Mê Linh, hậu duệ đời thứ 25 của Vua Hùng- họ Lạc. Thân mẫu của Hai Bà tên là Trần Thị Đoan (tục danh là bà Man Thiện), có nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ.
Ngày 01 tháng 8 năm Giáp Tuất (14.CN) bà Man Thiện sinh một lần được hai con gái. Vì là nhà tằm tơ, nên 3 năm sau, mới đặt tên cho cô chị là Trắc (lứa đầu - ''lứa chắc'' theo cách tính của nhà nuôi tằm), cô em là Nhị (''lứa nhì''- lần thứ hai)
Năm 19 tuổi, cha mẹ gả cô chị là Trắc, lấy con trai quan Lạc tướng huyện Chu Diên là Thi Sách tức là năm Canh Thìn (32. CN). Vợ chồng đoàn tụ mới được vài năm thì Thi Sách bị Tô Định giết chỉ vì con hai nhà tướng kết hôn với nhau, trở thành một lực lượng lớn, không có nơi cho sự thống trị của nhà Hán.
Căm giận quân giặc bạo ngược, vì nợ nước nay lại thêm mối thù nhà, bà Trắc đã cùng với em là Nhị phát động trong toàn quận Giao Chỉ, tập hợp các Lạc hầu, Lạc tướng, kêu gọi quân sĩ và nhân dân nổi lên cùng đánh giặc. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam được tin quận Giao Chỉ khởi nghĩa đều nổi lên hưởng ứng.
Cuộc khởi nghĩa ấy chia ra các giai đoạn như sau:
I- THỜI KỲ TRƯỚC NGÀY TUYÊN BỐ KHỞI NGHĨA:
Sau khi ông Thi Sách bị giết, bà Trắc quyết chí phục thù trả oán. Bà tiến hành tổ chức chứa tích lương thực, vận động thu dùng các anh hùng hào kiệt trung thiên hạ, những người cùng chí hướng, chiêu binh tuyển tướng ở các địa phương, nên người theo về ngày một đông. Lúc đó thuộc địa bàn Sơn Tây cũ có:
Liên Chiểu được một người Phù Sa được một người (sau đổi 1à Phần Sa, rồi Các Sa- xã Trung Kiên huyện Vĩnh Tường)
Huyện Bạch Hạc có:
- Xã Văn Trưng được 1 người (nay là thôn Văn Trưng xã Tứ Trưng huyện Vĩnh Tường)
- Xã Đại Tự được 1 người (nay thuộc huyện Yên Lạc).
- Xã Cẩm Viên được 1 người (nay là thôn thuộc xã Đại Tự)
- Xã Phủ Yên được l người (nay là thôn thuộc xã Yên Lập huyện Vĩnh Tường)
Huyện Yên Lạc có:
Xã Bình Lỗ được l người (có lẽ 1à Tề Lỗ huyện Yên Lạc)
- Xã Mạnh Lân được một người (sau là Kim Lân xã Hồng Châu)
- Xã Thọ Lão được một người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê Linh)
- Xã Yên Lão được một người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê Linh)
- Xã Vân Canh được 1 người (nay thuộc vào thị trấn huyện Bình Xuyên)
Huyện Lập Thạch có:
- Xã Vân Nhưng được 3 người (nay thuộc xã Tân Lập)
- Xã Ân Hộ được 3 người (tục danh làng Họ, nay thuộc xã Tham Sơn)
- Xã Vụ Cầu được 1 người (tục danh làng Cầu, nay thuộc xã Tam Sơn)
Tỉnh Hà Tây có 3 huyện có người ứng nghĩa:
Huyện Tiên Phong có:
Xã Kim Bí được 1 người
- Xã Tân Hoa được 1 người
Huyện Yên Sơn có:
- Xã Bối Khê được 1 người
- Xã Hữu Quang được 1 người
Huyện Thạch Thất có:
- Xã Tuy Lộc được l người
Để đảm nhận công việc trọng đại ấy, bà Nhị được chị gái cất nhắc làm chức ''Bình khôi'' sau khởi nghĩa phong làm ''Bình khôi công chúa''- tức là vị công chúa đứng đầu thu phục thiên hạ). Rồi gửi tờ hịch chiêu dụ mọi người trong toàn quận Giao Chỉ, bởi vậy các nướng, nữ quân chiếm đa phần trong tổng số lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa.
Nhiều thư tịch đời sau chép về khí thế ra quân của những ngày ấy mà sự tích hầu hết đã trở thành huyền thoại: ''Đương thời nam nhi thao lược vị hữu kỳ nhân; Nữ tướng soái binh thần linh phát động''. Nghĩa là: Lúc ấy nam nhi tài giỏi chưa có mấy người; Nữ tướng soái binh như có thần thiêng thúc giục. Bởi vậy, chỉ 15 ngày sau tướng sĩ mọi miền đã tìm đến tụ nghĩa. Đồng thời bà Trắc đã đến nhiều địa phương vận động khởi nghĩa. Nơi ấy ngày nay đều có di tích thờ cúng ghi nhận. Bà cũng đã vận động lên miền thượng lưu sông Đáy, giáp gianh giữa 2 huyện Tam Dương - Lập Thạch ngày nay tập hợp lực lượng. Nơi bà hội quân với các bà Quý Lan (An Bình phu nhân) và Ngọc Kinh công chúa là di tích ''Bãi Hội'' ở làng Đông Định, xã Thái Hoà, Lập Thạch. Nơi ấy nay có đền thờ Bà tạo thành một vùng căn cứ rộng lớn ở các xã Liễn Sơn, Thái Hoà, Liên Hoà, Hợp Lý huyện Lập Thạch và các xã Hoàng Hoa, Đồng Tình, An Hoà huyện Tam Dương.
Các di tích trong khu vực sông Đáy.
1- Xã Liên Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 1 di tích
2- Xã Liễn Sơn huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 2 di tích
3- Xã Thái Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 3 di tích
4- Xã Bồ Lý huyện Lập Thạch (Vực Truông): 1 di tích
5- Xã Hợp Lý huyện Lập Thạch (bờ trái sông): 1 di tích
6- Xã An Hoà huyện Tam Dương (bờ trái sông): 3 di tích
7- Xã Đồng ranh huyện Tam Dương (bờ trái sông): 6 di tích
8- Xã Hoàng Hoa huyện Tam Dương (bờ trái sông): 2 di tích
Cộng xã: 19 di tích
Tháng Giêng năm Canh Tý (40CN), tất cả các tướng ở mọi vùng đều đã tiến quân về họp lại ở thành Phong Châu sông Bạch Hạc để khao thưởng các quân sĩ.
II- KHỞI NGHĨA Ở CỬA SÔNG HÁT
Sau cuộc tổng tập hợp quân đội ở Phong Châu, Hai Bà đã cho quân đội vượt sông sang lập đàn thề ở bãi cát dài cửa sông Hát.
Nơi ấy nay thuộc xã Hát Môn huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây. Địa điểm cách đê hữu sông Hồng 6km, gần chỗ cửa Hát tách ra từ sông Hồng. Tại Hát Môn, Hai Bà cho quân sĩ dựng đàn tế cáo trời đất, tuyên bố khởi nghĩa. Lời tuyên như sau:
''Trời sinh một người làm tông chủ của vạn vật trong trời đất. Muôn vật ràng buộc vào đấy, cỏ cây quan hệ về đấy. Trải các triều trước các vị đương thiên tử đều là bậc thánh minh, khiến cho triều đình có đạo Yên dân lo việc nước, đức hoá mở mang, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có người hơ khác tên là Tô Định, lòng dạ chớ dê, hăm doạ 4 phương, tham tàn bạo ngược, trời, đất, thần, người đều căm giận.
Thiếp là cháu gái của Vua Hùng thuở trước, hôm nay đau lòng thương dân vô tội, dấy nghĩa trừ tàn nguyện xin các vị thần linh hội họp tại đàn này chứng giám và phù hộ cho thiếp. Thiếp là Trưng Nữ dấy binh dẹp giặc, che chở dân lành, thú phục lại muôn vật cũ của tổ tông. Không phụ ý trời, thoả nguyện nơi đền miếu của các bậc đương các đời, không phụ sự trông đợi của tổ phụ nơi chín suối''
Tế xong, Hai Bà phân chia các đạo quân, tổ chức quân ngũ. Riêng số các nữ tướng, nữ binh chia làm 2 đội, phong cho các chức:
1- Lão Tiên công chúa nắng giữ ''Trung quân nội thị''
2 - Công chúa Cẩn Hạnh nắm giữ ''Tiền quân nội thị'' có 500 quân
3- Công chúa Huệ Đức và Công chúa Trang ranh nắm giữ quân ''nội thị binh nhung''
4- Công chúa Ả Chàng, Ả Chạ (vì Lê Ngọc Thanh cùng danh hiệu) nắm giữ "Tả quân nội thị", quân nữ có 500 người
5- Thuỵ công chúa và công chúa Minh Trinh nắm giữ ''Hữu quân nội thị''. Quân nữ có 500 người
6 - Công chúa Minh Nương nắm giữ tiền quân - quân nữ có 100 người
7 - Công chúa Tráng Cẩn nắm giữ ''Tả quân nội thị''. Quân nữ có 100 người
8- Công chúa Bình Khôi (tức bà Nhị) nắm giữ toàn bộ các vệ ''Nữ quân nội thị...
Còn các tướng nam đều cớ phong chức thu nạp tham gia khởi nghĩa.
Sau đó bà Trắc cùng các tướng sĩ bái lạy trời đất, thống lĩnh quân dân, tiến quân về thành Long Biên đánh Tô Định.
III- CUỘC TIÊN QUÂN MÙA XUÂN NĂM CANH TÝ (42.CN) ĐẠI THẮNG:
Trên đường tiến quân, Hai Bà dẫn toàn bộ quân đội về làng Hạ Lôi dựng đồn đóng quân.
Đêm đó ở Hạ Lôi, (tên thời nội thuộc Hán là Kỳ Họp) có hơn 10 vị tướng dưới quyền được chọn làm tướng ''thủ túc'' (thân cận, gần gũi như tay chăn), và có 17 nữ tướng có tài trí ngày đêm thường trực ở bên cạnh Trưng Vương. Ngày 07 tháng Giêng, bà Trưng mở tiệc lớn khao quân ở Hạ Lôi 10 ngày, rồi chia quân làm 5 đạo.
- Đi tiên phong là Đại Vương Đông Hối
- Trung quân là Nữ Vương Trưng Trắc (ở giữa)
- Tả quân là Minh công dực thánh (?) (bên trái)
- Hữu quân là Lương công dực thánh (?) (bên phải)
Hậu quân là Hiến công (?) và Nhị nương công chúa
Tất cả cùng tiến về thành Long Biên đánh Tô Định. Cảnh tượng ngày xuất quân thật oai hùng: ''Cờ xí đầy đất, chiêng trống vang trời, tướng nam lẫm liệt, tướng nữ lạnh lùng''. Trước sức mạnh như vũ bão của đội quân Hai Bà, quân Hán không kịp tổ chức nghênh chiến, chống đỡ, nên khi quân đội của Hai Bà tấn công, quân của Tô Định chỉ còn biết thua chạy và bị giết ''máu chảy thành ao, xương tụ thành gò'', xác giặc chồng chất làm cho ''dựng sông nghẽn chảy'', Tô Định bị đao chém sát thương. Cuối cùng thì Tô Định nhanh chóng rút chạy về Trung Quốc, chịu tội với triều đình nhà Hán. Chẳng bao lâu, trong toàn quận Giao Chỉ, nghĩa quân tổng công kích, thu phục được 65 thành.
IV VƯƠNG TRIỀU HỌ TRƯNG.
''Đại Việt sử ký toàn thư" chép là ''Trưng Nữ Vương Kỷ''
Đất nước giải phóng, Hai Bà thu quân về thành Phong Châu. Bà Trưng Trắc lên ngôi Vương, đứng đầu bộ máy nhà nước độc lập tự chủ. Tiến hành phong thưởng thứ bậc công thần cho các tướng sĩ. Cắt cử một số tướng sĩ trở về nơi căn cứ cũ của mình xây dựng doanh điện phòng vệ làm hậu cứ cho triều đình.
Ở trung ương, xây dựng bộ máy nhà nước vương triều gồm có 2 ban ''văn- võ''. Tất cả đều có chữ ''tiết ché' (nghĩa là ''chỉ huyết), đặt quan chia chức đảm nhận công việc Nhà nước. Lại xây dựng 1 ''Sở hành cung'' ở xứ đầu voi làng Hạ Lôi làm nơi ''Sở thiết triều'' (nơi bàn việc nước lưu động). Phía sau xây thành bảo vệ, đời sau gọi là ''thành ống''. Đồng thời bà Trưng Nhị dựng hai luỹ ở Cư An, đắp thành Đền, tất cả đều nằm ở phía Tây Bắc ''hành cung'' Hạ Lôi trưng sự bố phòng bảo vệ.
Sau đó, bà Trưng Trắc đời đô về Hạ Lôi, định trị sở việc nước chính thức là ''hành cung'' xứ đầu voi. Nay là đền Hai Bà. Đất ấy đời Hán là làng Kỳ Hợp huyện Chu Diên. Từ đó chính trị ổn định, việc nước trong sáng êm đềm, lòng dân theo phục.
V- CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÃ VIỆN NĂM 42.CN.
Năm 41.CN, vua Hán Quang Vũ được tin triều đình Lĩnh Nam đã được xác lập, dơ Bà Trưng Trắc làm tôn quân, nên tức tốc hạ lệnh cho các quận, châu, huyện phía nam là Trường Sa, Hợp Phố và một số nơi thuộc Giao Chỉ sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, mở đường thông các núi khe, chứa thóc lương để dự phòng cho cuộc xâm lăng sắp tới Ngay sau đó, Hán Quang Vũ lại sai Tô Định dẫn 5 vạn quân đi trước trở lại Giao Chỉ. Mã Viện vui mừng được Hán Vũ Đế cử làm Phục Ba tướng quân, cho tổng chỉ huy cùng với phó tướng là Phù Lạc Hầu Lưu Long, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân đem 30 vạn quân tiến vào nước ta để đánh Trưng Vương.
Quân Hán qua cửa ải Ngọc Quang
1- Cuộc Chiến ở thành Lạng Sơn
Được tin bái về, ở thành Hạ Lôi, Trưng Trắc cử trưng Nhị và hai đại tướng đem quân lên đánh chặn giặc, giết chết được Tô Định ngay từ trận đầu giao chiến. Thấy tình thế thất lợi, sau khi qua ải Ngọc Quan, Mã Viện và Lưu Long dẫn quân đến thành Lạng Sơn lập doanh luỹ cố thủ thanh thế rất to.
Để chặn đánh quân địch từ ngoài biên ải, Trưng Trắc dẫn toàn bộ đại quân lên thành Lạng Sơn cự chiến Mã Viện là viên tướng già (lúc này Viện đã ngoài 70 tuổi) giảo quyệt, biết trưng Trắc đã đem hết quân đội lên đánh thành Lạng Sơn nên ra lệnh cho quân sĩ cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian tiếp chiến, khiến đại quân của Hai Bà Trưng gặp bất lợi. Mã Viện chơ Lưu Lang coi giữ 25 vạn quân ở lại cố thủ thành Lạng Sơn, cầm chân quân đội của Hai Bà Trưng dưới thành, bố phòng ở những nơi hiểm trọng, không chịu ra đánh. Đại quân của Hai Bà do vậy phải kìm lại vây thành.
2- Âm mua của Mã Viện
Trong khi tình thế chiến trận kéo dài im ắng, thì Mã Viện dẫn 5 vạn quân bí mật xuất phát, không kể ngày đêm, cướp đường mà đi, cấp tốc chỉ trong 5 ngày sau đã đến khu Thanh Trước, dựa vào địa hình nụ; mà đồn binh, tích trữ lương thảo. Rồi Mã Viện trước hết tấn công kho quân lương ở Nội Phật dơ bà Thánh Mẫu Dưỡng quản lĩnh, đánh tan cơ sở hậu cần của quân đội Hai Bà. Sau đó Mã Viện tấn công thành Cự Triền.
Cự Triền là một thành lớn do Bà Trưng Nhị tổ chức xây đắp để phòng thủ ở mặt tây bắc cho đô thành Mê Linh. Ở mặt trận này tuy quân đội của Bà Trưng đã tiến lên Lạng Sơn, nhưng do thành được xây đắp kiên cố nên Mã Viện không dễ dàng hạ nổi. Địa hình lại hoàn toàn bất lợi cho quăn Hán, vì thành được xây đắp trên gò Dền giữa cánh đồng Dền, bốn bề đồng không nước ngập, địa hình trở nên phức tạp. Để lấy điểm tựa tập kết quân sĩ tấn công thành Dền, Mã Viện đã phải hấp tấp đưa vàơ địa thế sẵn có của một quả gò nhỏ, gọi là gò Viên (dân đã quen gọi là gò Vượn) thuộc cánh đồng Vượn) đắp trong một đêm phải xong.
Một trận chiến quyết liệt đã diễn ra, cuối cùng thì thành Dền cũng bị hạ. Đình Cư An xã Tam Đồng, di tích thờ Bà Trưng Nhị có đôi câu đối viết về sự kiện này. Như sau:
Triền thuỷ ba bình phần tử y hi hàm thánh trạch
Viên thành nguyệt hiểu đống yểm ẩn ước hiện thần quang
Nghĩa là: Sóng nước quanh đồng triền (đồng Dền) đã yên, cây cối nghĩ rằng có công ơn của Thánh Trăng soi thành Vượn, bước tới gần gò đống như có như không, cũng bày ra biến hoá rõ ràng. Sau khi hạ thành Cự Triền, Mã Viện không mấy khó khăn khi tiến về đánh thành Hạ Lôi, đào mộ cha mẹ Hai Bà, yết cung điện. Kinh đô Mê Linh phút chốc chìm trong máu lên. Sau đó, Mã Viện lại kéo quân lên thành Lạng Sơn, trong đánh ra, ngoài hợp chiến cùng tiến đánh Hai Bà Trưng từ hai phía.
3- Trận chiến ở Lãng Bạc
Sau khi bị tổn thất ở thành Lạng Sơn, lại bị quân Hán bức bách ở mặt trận phía trước và phía sau, nên Bà Trưng rút quân trở về. Đội quân hai bên gặp nhau ở Lãng Bạc, địa điểm ở vùng 2 huyện Tiên Du- Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Một trận quyết chiến đã xảy ra. Sử ''Toàn thư" chép: ''Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui về giữ Cấm Khê''
4- Công cuộc cố thủ cấm Khê
Sau khi rút khỏi mặt trận Lãng Bạc, Trong Vương biết là thành Cự Triện và kinh đô Mê Linh đã bị thất thủ, Hai Bà tiến lên vùng Cấm Khê thủ hiểm, tính kế lâu dài. Cấm Khê (sử cũng chép là Kim Khê) là vùng đất ngập nước bên bờ sông Cà Lồ từ làng Gia Phúc (xã Xuân Đài), qua làng Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao của xã Vân Đài, xã Tiên Đài của tổng Vân Đài huyện Yên Lạc, phủ Vĩnh Tường triều Nguyễn, đến xã Can Bi tổng Xuân Lãng huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Yên. Trong đó các làng Cẩm La, Phúc Lộc, Yên Nội, Đống Cao đời Lê trở về trước thuộc xã Vân Đài hoặc Quan Đài cùng với các xã Xuân Đài Tiên Đài là nơi tập trung nhất về di tích thờ cúng Hai Bà Trưng.
Ở cấm Khê, quân Hai Bà bị vây hãm mấy tháng liền. Phía trước không còn đường tiếp lương, cỏ ngựa, phía sau không có quân cứu viện lại biết thành trì lăng mộ ở nhà (Hạ Lôi) đã bị Mã Viện phá hết, nhưng không thể tự phá trận để thoát khỏi vòng vây. Biết rằng cơ nghiệp do chị em gây dựng bấy nay sẽ khống còn, Bà Trưng Trắc tự khẳng định với mình rằng:
Sinh ra làm người, thà làm quỷ nước Nam, há chau đã bị trói tay bắt sống, bị người Hán phương Bắc làm nhục?
Thế là Bà chỉ huy toàn quân quyết đánh một trận, quân - thần - tướng - tá đều bị vây, bị giết ở Cấm Khê. Số còn lại trở về nơi doanh địa cũ rồi lần lượt bị Mã Viện đánh bại. Thu thắp trong điền dã của chúng tôi trong khu vực xã Văn Tiến huyện Yên Lạc, thấy có như sau:
- Gò Hang: Thống kê năm 1938 của xã Vân Đài thì trong làng ''có lái đống gọi là gò Hang, nhưng không biết dưới có hang không''.
Ngày nay gò Hang hiện còn, thuộc thôn Yên Nội. Diện tích khoảng 5-6 sào Bắc Bộ, nhân dân ở đây gọi là gò Cánh Tiên. Hang có cửa vào xây cuốn vòm như hình chớp bia bằng gạch bìa, ở thành có vạch ô quả trám. Cửa hang nổi lên trên mặt đất nay mới bị lấp. Chúng tôi nghĩ rằng người xưa xây như một cái am rồi mới gánh đất đổ lên thành vòm. Gò có ''hang'' ở dưới nên gọi ''Gò Hang''. Vì vậy đất trên gò gồm nhiều loại, xồm xộp không hoàn thổ và cỏ không mọc được. Cũng chưa thấy khai thác trồng trọt. Nay mới lập 1 am nhỏ để mấy nhà bên cạnh gò thắp hương.
Có thể dơ có gò Hang là một ngôi mộ cổ dùng gạch xây đời Hán mà vùng này có địa danh Hi Sơn. Tất nhiên còn chờ ở các tài liệu khảo cổ trong tương lai. Xung quanh gò Hang còn các địa danh: Thầy Vang, Chùa Tranh, Giếng Tó, Gò Bắc Bếp; Gò Tổng Binh, Gò Cơn Ngựa.
Thầy Vang: Chữ ''Thầy'' theo cách giải thích của địa phương nghĩa là ''bờ lũy''. Thầy Vang nghĩa là bờ lũy Vang. Chữ Vang là địa danh thuộc thôn Yên Nội.
Chùa Tranh: Tên chữ là ''Phúc Lâm Tự''. Chùa không thờ bằng tượng Phật mà thờ bằng ''Tranh Phật''. Chùa Tranh thuộc thôn Đống Cao ở sau đình Đống Cao. Là một hiện tượng hiếm thấy.
Giếng Tó: Là giếng ở trước đình Đống Cao. Tang và thành giếng làm bằng đất thớ màu vàng. Nước giếng rất trong
Gò Bắc Bếp: Địa danh thuộc thôn Đống Cao, ở cạnh đình Đống Cao. Đào yên tìm thấy nhiều tro bếp và các ''ông đầu rau''.
Gò Con Ngựa: ở sau đình Đống Cao, cũng gọi là gò ''Đồng Cũ''. Trống canh tác nhân dân địa phương tìm thấy nhiều gạch bìa cổ, có vạch. Bờ móng xây bằng vữa đất, xếp từng lượt khi cày sâu vẫn bật gạch tên.
Dưới làng Vân Đài là làng Tiên Đài được nhân dân giải thích là ''Đài quan sát'' ở phía trước. Làng này xưa chỉ có một họ Trần.
Làng Xuân Đài, địa danh thời cổ là làng Liễu. ở đây có gò ''Tổng binh'', nơi cớ đền Gia Phúc thờ Hai Bà Trưng. Cả làng xưa chỉ có một họ Phạm.
Như vậy xã Văn Tiến ngày nay gồm ''3 làng Đài'' xưa là: Tiên Đài, Xuân Đài và Vân Đài (hoặc Quan Đài gồm: Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao, Yên Nội)
Toàn bộ các cánh đồng cấy lúa trồng màu vùng này xưa kia là vùng đầm lầy bên bờ sông Cà Lồ. Sau đê sông Cà Lồ bị vỡ vào thời Tự Đức, nên bị bồi lấp nay thành đồng ruộng. Nay là ruộng đất các xã Nguyệt Đức, Văn Tiến.
  
Về giai đoạn cuối cùng của cuộc khởi nghĩa ở Cấm Khê, sử CM chép: ''Trưng Vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ thếch, đều bị thất trận chết. Sự nghiệp anh hùng cứu nước của họ Trưng đến đây là kết thúc.



1. THỜI ĐỒ ĐÁ
Nhan đề : Thời đại Dá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam
Tác giả: Công ty Thiên Kim
Nơi xuất bản: Công ty Thiên Kim
Thời gian xuất bản: 25/ 9/ 2015
Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam
Trong buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam là một trong những quê hương của loài người. Người ta đã phát hiện thấy người vượn ở Bình-Gia (Lạng Sơn), nhiều công cụ thuộc buổi đầu thời kỳ đồ đá cũ ở núi Đọ, núi Quan Yên (Thanh Hoá). Đó là dấu vết xưa nhất hiện nay ta biết về giai đoạn bầy người nguyên thủy trên đất nước ta.Thời ấy cách ngày nay hàng mấy chục vạn năm.
Bấy giờ, mực nước biển Đông thấp gần trăm mét so với ngày nay. Vì vậy, đất nước ta khi ấy qua bán đảo Ma-lai-xi-a còn nối liền với các đảo Gia-va, Xu-ma-tơ-ra, Ca-li-man-tan của In-đô-nê-xi-a. Các kết quả nghiên cứu địa chất và khí hậu học còn cho biết trong thời kỳ này xen kẽ những kỳ khô hạn là những kỳ mưa nhiều khiến khí hậu Việt Nam ẩm và mát hơn bây giờ một chút. Trong rừng rậm, trên thảo nguyên, có nhiều đàn voi răng kiếm, gấu mèo, tê ngưu, lợn lòi, hổ, báo, hươu, nai, đười ươi, vượn, khỉ, cầy, chồn...sinh sống. Những bầy người nguyên thuỷ sống dựa vào hang đá, lùm cây, đi dọc bờ suối, bờ sông tìm kiếm thức ăn bằng hái lượm và săn bắt.
Người ta đã phát hiện được ở núi Đọ hàng vạn công cụ đồ đá cũ; người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ, tạo nên những công cụ chặt, rìu tay, nạo...bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ, thuật ngữ khảo cổ gọi là mảnh tước. Với những đồ đá đó, người nguyên thủy có thể chặt cây, vót gậy tre, lao gỗ, xẻ thịt, đập vỡ xương thú săn bắt được... Loại hình công cụ nghèo nàn, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ là đặc điểm của thời kỳ đồ đá cũ. Di tích núi Đọ là bằng chứng về sự có mặt của những chủ nhân sớm nhất trên lãnh thổ Việt Nam vào thời kỳ tổ chức xã hội loài người đang hình thành.
Cách ngày nay khoảng ba, bốn vạn năm, vào thời kỳ bộ tộc nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã đông đúc hơn. Người ta đã phát hiện được dấu tích con người cùng với những hóa thạch động vật cổ ở hang Hùm (Yên Bái), hàng Thung Lân (Ninh Bình). Đó là những thị tộc, bộ lạc sống trong hang động miền núi đá vôi. Tuy nhiên, cũng đã có những thị tộc, bộ lạc tiến ra sinh sống ở miền đồi trung du vốn là miền phù sa cổ của sông Hồng với rừng rậm phủ dày. Những hiện vật đá cuội ghè đẽo thô sơ thuộc cuối thời đại đồ đá cũ hoặc đầu thời đại đồ đá giữa tìm thấy ở di chỉ Sơn Vi (Phú Thọ) là những minh chứng chắc chắn cho giả thuyết này.
Văn hóa đá cuội ghè được tiếp nối với hai nền văn hóa Hòa Bình (thuộc thời đại đồ đá giữa) và văn hóa Bắc Sơn (thuộc buổi đầu thời đại đồ đá mới) cách ngày nay khoảng một vạn năm. Ở các nền văn hoá này, bên cạnh kỹ thuật chẻ đẽo, người nguyên thủy đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu Bắc Sơn (rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng. Văn hóa Bắc Sơn là một trong những di chỉ văn hóa có rìu mài sớm trên thế giới. Cũng trong thời kỳ này người ta còn phát hiện được những đồ gốm đầu tiên được nặn bằng tay.
Việt Nam là đất nước của hàng trăm loại tre, nứa. Tre, nứa đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hóa nguyên thủy cũng như trong đời sống người Việt Nam sau này. Chúng được dùng làm gậy, lao, cung tên, đồ đan lát, thừng bện... Do bị thời gian huỷ hoại nên đến nay không còn chứng tích công cụ tre, nứa của người Việt cổ; tuy nhiên ta vẫn có thể tìm thấy dấu vết của tre, nứa trên các hoa văn đồ gốm sơ kỳ.
Cùng những thị tộc, bộ lạc ở miền núi, trung du trên đất nước Việt Nam khi ấy, còn có những tập đoàn người nguyên thủy sinh sống ở miền ven biển Đông. Họ là chủ nhân của các nền văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Trải qua mấy nghìn năm, đống vỏ sò điệp do họ vứt ra sau những bữa ăn đã chất cao thành gò, rộng hàng trăm mét vuông. Người nguyên thủy sinh sống ở ven bờ biển còn khai thác đá gốc (thạch anh) làm công cụ. Họ chôn người chết trong những mộ huyệt tròn đào giữa đống sò điệp và chôn theo người chết một vài công cụ đá, đồ trang sức bằng vỏ ốc xuyên lỗ...
Với đồ đá, đồ tre gỗ, đồ đựng bằng đất nung, các thị tộc nguyên thủy đi săn và hái lượm có hiệu quả hơn. Ngoài việc mò cua, bắt ốc, chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn còn săn được nhiều thú như lợn rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê ngưu, voi... Chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn đã biết nuôi chó, trồng một số cây ăn quả, cây cỏ củ, rau đậu, dưa... . Từ cuộc sống hái lượm những sản vật sẵn có của tự nhiên, người nguyên thủy Việt Nam sớm bước vào cuộc sống sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh nghề săn, nghề đánh cá phát đạt, nghề nông đã ra đời cùng với việc chăn nuôi gia súc nhất là trên các vùng châu thổ của các con sông lớn.
Nhiều nhà nông học khẳng định bán đảo Đông Dương là quê hương của cây lúa. Ở đây có nhiều loại lúa hoang hiện còn tồn tại ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, bà con trong vùng thường gọi là lúa ma hoặc lúa trời. Dấu vết con người thời kỳ nguyên thủy có thể tìm thấy ở mọi miền trên đất nước Việt Nam từ vùng cực Bắc đến cực Nam. Họ để lại những di tích hang động và di tích ngoài trời ở miền núi, đồng bằng kể cả ở những vùng đất thấp sình lầy Nam Bộ trước khi hình thành nhà nước Việt Nam đầu tiên. Như vậy là vào thời đại đồ đá, trên nhiều vùng ở nước ta đã xuất hiện những nền văn hóa nguyên thủy đặc sắc, trong đó bên cạnh nền kinh tế hái lượm đã bắt đầu phát triển nền kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước.
Con người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn và Nghệ An. Ðặc biệt là ở hậu kỳ thời đá cũ (văn hoá Sơn Vi cách ngày nay 10.000 - 23.000 năm), con người đã phân bố khá rộng và khá đông trên đất Việt Nam.
Văn hoá Sơn Vi
Văn hoá Sơn Vi mang tên xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, do các nhà khảo cổ Việt Nam phát hiện và xác lập danh pháp vào năm 1968. Đến nay, hơn 140 địa điểm VHSV được phát hiện, phân bố chủ yếu trên các đồi gò trung du, một số di tích hang động Bắc Việt Nam. Công cụ đều làm từ đá cuội sông suối, ghè đẽo một mặt là chính, vết ghè trên một rìa cạnh tạo ra công cụ mũi nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, phần tư viên cuội, hai hoặc ba rìa; cùng với một số công cụ mảnh tước kém định hình. Cư dân VHSV chưa biết đến kĩ thuật mài công cụ đá và làm gốm, hoạt động kinh tế chủ yếu là săn bắn và hái lượm, chưa biết trồng trọt và chăn nuôi. VHSV có niên đại cuối Cánh Tân (Late Pleistocene), tồn tại trong khoảng từ 23.000 đến 11.000 năm cách ngày nay. VHSV khác văn hoá Hoà Bình, có trước văn hoá Hoà Bình và phát triển sang văn hoá Hoà Bình, thuộc hậu kì thời đại đá cũ. (Xem hình) .


Nhan đề : Ngô Quyền người mở đường kỷ nguyên độc lập cho đất nước thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc
Tác giả : Minh Vượng
Nhà xuất bản : Bảo tàng lịch sử Quốc Gia
Thời gian xuất bản : 5/ 6/ 2014
Ngô Quyền sinh vào năm Mậu Ngọ (898) niên hiệu Càn Ninh thứ năm hoặc Quang Hóa, năm đầu đời Đường Chiêu Tông ở xứ Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội). Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, làm chức Châu mục ở châu Đường Lâm. Họ Ngô của ông là dòng họ hào trưởng có thế lực, đời đời là quí tộc.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư mô tả: khi mới sinh, Ngô Quyền có ba cái nốt ruồi ở lưng, có thầy tướng số trông thấy cho là lạ, đoán rằng về sau ông có thể làm chúa một phương, do đó mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền dáng người khôi ngô, "mắt sáng như chớp, đi thong thả như cọp" "sức có thể cầm vạc giơ lên".
Thuở thiếu thời của Ngô Quyền cũng là thời kì bão táp của chế độ thống trị nhà Đường ở An Nam. Đô hộ phủ An Nam ngày càng tỏ ra bất lực trong việc khống chế các thế lực cát cứ địa phương cũng như các thế lực bên ngoài. Người Nam Chiếu đã tấn công dữ dội Giao Châu từ năm 858 đến năm 866. Sau loan An Sử (755 - 763) và nhất là khởi nghĩa Hoàng Sào (874 - 884), nhà Đường phải đối phó với nạn phiên trấn cát cứ, sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với An Nam ngày càng yếu đi. Quyền lực của phủ Đô hộ bị phân tán xuống các vùng nhỏ, do đó xuất hiện các thế lực hào trưởng có vai trò ngày càng quan trọng trong bộ máy cai trị.  Vì vậy, họ Khúc, hào trưởng Hồng Châu, đã thiết lập chính quyền tự chủ ở An Nam một cách khá dễ dàngvào năm 905. Thế lực họ Khúc yếu ớt, đối đầu và thất bại trước sự xâm lấn của nhà Nam Hán. Nhưng sự thống trị của nhà Nam Hán cũng không vững bền. Năm 931, thế lực họ Dương do Dương Đình Nghệ chỉ huy ở Ái Châu đánh bại quan lại nhà Nam Hán là Lý Tiến, Trần Bảo ở dưới chân thành Đại La. Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ (tương đương vua) đầu tiên của người Việt tự chủ. Dương Đình Nghệ nắm quyền ở Đại La nhận được sự ủng hộ của nhiều thế lực địa phương khác, trong đó có họ Ngô của Ngô Quyền.

 Ngô Quyền (tranh minh họa).
Lúc trưởng thành, Ngô Quyền võ nghệ tinh thông và có chí khí khác người. Năm 920, Ngô Quyền theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La vào năm 931, góp phần giúp cho Dương Đình Nghệ thắng quân Nam Hán lên làm Tiết độ sứ. Năm 932, Ngô Quyền được Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ tin tưởng giao cai quản Châu Ái rồi còn gả con gái cho. Trong 7 năm cai quản Ái Châu, Ngô Quyền trổ tài lực, dốc lòng đem lại yên vui, thái bình cho dân chúng.
 Năm 937, thế lực họ Kiều ở châu Phong tổ chức binh biến, giết chết Dương Đình Nghệ, đưa Kiều Công Tiễn lên nắm quyền. Công Tiễn tự xưng Tiết độ sứ. Hành động này đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các thế lực hào trưởng các địa phương, thậm chí chính nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Ngô Quyền, với danh nghĩa là bộ tướng và con rể của Dương Đình Nghệ đã sớm trở thành ngọn cờ quy tụ lòng yêu nước của mọi tầng lớp, tập hợp lực lượng tiêu diệt kẻ phản trắc Kiều Công Tiễn. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn hoảng sợ, vội vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Nam Hán Cao Tổ (Lưu Cung) sai con trai là Lưu Hoằng Thao đem hai vạn quân, dùng chiến thuyền, xâm lấn Tĩnh hải quân.
Năm 938, Ngô Quyền  cùng với Dương Tam Kha (con trai Dương Đình Nghệ) và Đỗ Cảnh Thạc đem quân ra Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn khi quân Nam Hán còn chưa kịp vào thành. Thành Đại La trở thành trung tâm đầu não và chỉ huy của Ngô Quyền để nhanh chóng tổ chức kháng chiến chống quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Trước mưu đồ xâm lược trở lại của phong kiến Trung Quốc, ngọn cờ cứu nước của Ngô Quyền trở thành ngọn cờ đoàn kết của cả dân tộc. Đội quân Ngô Quyền, từ một đội binh Ái Châu đã nhanh chóng trở thành một đội quân dân tộc. Truyền thuyết dân gian còn ghi nhớ chuyện 38 chàng trai làng Gia Viễn (Hải Phòng) do Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu, đã tự vũ trang, xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hải Hưng), người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến.

Sơ đồ trận chiến Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 trưng bày tại BTLSQG.
Vùng cửa sông và vùng hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm chiến trường quyết chiến. Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp. Ngô Quyền dự định nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến. Tướng Dương Tam Kha chỉ huy đội quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu ngạn. Hai cánh quân tả, hữu sẽ phối hợp đánh địch khi chúng bị mắc kẹt ở đoạn sông Bạch Đằng đóng cọc nhọn. Quả nhiên, quân Nam Hán mắc mưu vào đúng thế trận Ngô Quyền đã sắp đặt. Toàn bộ chiến thuyền quân Nam Hán bị cọc nhọn đâm chìm. Tướng giặc Lưu Hoằng Thao bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ. Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra quá nhanh khiến cho vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không kịp ứng tiếp cho con trai. Nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lấn Tĩnh Hải quân.

 Mô hình Trận thủy chiến lịch sử Bạch Đằng năm 938 do Ngô Quyền chỉ huy tại hhej thống trưng bày BTLSQG.
Với mưu lược thần tình của mình, Ngô Quyền đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử nổi tiếng năm 938, kết thúc hơn một thiên kỉ Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ cho nước Việt.
Về trận Bạch Đằng, Ngô Thì Sĩ đánh giá: “trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý,Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại…”
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ. Ông tự xưng vương, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô, một quốc gia độc lập tự chủ, do vua cai quản. Kinh đô của triều đại mới không nằm ở Đại La mà chuyển về Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc từ thời An Dương Vương một nghìn năm trước. Ngô Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục. Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương tổ chức một triều chính độc lập “đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của đế vương”.
Bà vợ họ Dương (con gái của Dương Đình Nghệ), được lập làm hoàng hậu. Các tướng sĩ có công trong cuộc chiến chống quân Nam Hán đều được phong tước, cấp thái ấp. Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa được 6 năm (939-944). Việc đóng đô ở Cổ Loa của Ngô Vương khôi phục vị trí trung tâm chính trị của vùng đất Hà Nội trong buổi đầu phục hưng của đất nước sau hơn nghìn năm Bắc thuộc. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam, mở ra thời kì hòa bình kéo dài gần nửa thiên niên kỉ của Việt Nam với những triều đại: nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ mà công lao sự nghiệp lừng lẫy trong lịch sử.

 Lăng thờ Ngô Quyền ở Đường Lâm (Sơn Tây).
Lê Văn Hưu nhận định về ông rằng:” Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được”. Phan Bội Châu tôn vinh Ngô Quyền là “Vị Tổ Trung hưng đời thứ nhất”. Trong “Đại Nam Quốc sử diễn ca”, Phân Bội Châu đã viết:
“Ngô Quyền đức trí cương - nhu
Quăng đi cái ách nghìn thu thuộc Tàu
Danh thơm tiếng mãi về sau
Non sông gấm vóc nhắc nhau bảo toàn…”
Chiếc đĩa sứ có vẽ trận chiến Bạch Đằng do Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề tặng đền thờ Ngô Quyền ở Đường Lâm  vào năm 1998.
Ngô Quyền mất ngày 18 tháng Giêng năm 944, thọ 47 tuổi. Ông được xây lăng thờ ở nhiều nơi. Tại xã Đường Lâm, Sơn Tây có đình thờ và lăng Ngô Quyền. Trong nhà truyền thống xã Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như rìu đá, di chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch Đằng… Tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, Bảo tàng Hải Phòng, Hải Dương đều trưng bày trang trọng tượng, tranh về Ngô Quyền cùng những hiện vật, mô hình về trận chiến Bạch Đằng năm 938. Ngày 12/12/1986 Khu di tích Từ Lương Xâm - nơi đại bản doanh của Ngô Quyền đánh trận Bạch Đằng (quận Hải An- Hải Phòng) đã được Bộ Văn hoá (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 235 - VH/QĐ.  Để tưởng nhớ công ơn của Đức Vương Ngô Quyền, hàng năm nhân dân địa phương tổ chức lễ hội truyền thống tại di tích trong 03 ngày từ 16- 18 tháng giêng đúng vào dịp kỷ niệm ngày mất của Ngô Quyền. Ông mãi là niềm tự hào của dân tộc; người anh hùng đã khôi phục quốc thống sau nghìn năm Bắc thuộc.


Nhan đề : Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 – Đòn quyết định đánh bại chiến lược “ Chiến tranh cục bộ”
Tác giả: Nguyễn Ngọc Toán
Nơi xuất bản: Quân đội nhân dân
Thời gian xuất bản: 7/ 12 / 2014
Địa chỉ: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/nhung-moc-son-lich-su/tong-tien-cong-va-noi-day-xuan-mau-than-1968-don-quyet-dinh-danh-bai-chien-luoc-chien-tranh-cuc-bo/334866.html

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Đòn quyết định đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
QĐND Online - Năm 1965, với việc đưa quân viễn chinh cùng quân các nước đồng minh vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường Việt Nam, đế quốc Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam lên quy mô và cường độ chưa từng có. Chúng ra sức tăng quân, tăng chi phí quân sự và ném vào chiến trường Việt Nam một khối lượng phương tiện chiến tranh khổng lồ và hiện đại nhất. Tính đến đầu năm 1968, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên tới 480.000 tên và 68.800 quân của các nước đồng minh. Nếu kể cả khoảng hơn 20 vạn quân đóng ở các căn cứ quân sự trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Phi-líp-pin, Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6, đã có tới 80 vạn quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh Việt Nam, cùng một lực lượng hùng hậu quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Lực lượng quân số đông đảo, cùng phương tiện, vũ khí chiến tranh tối tân nhất thời đại, lính Mỹ liên tục tổ chức các cuộc hành quân “tìm diệt” trên khắp chiến trường miền Nam, mà đỉnh điểm là hai cuộc tiến công quy mô lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966- 1967, nhưng quân xâm lược Mỹ không đạt được mục đích đề ra. Chỉ trong vòng 2 năm (1965 - 1967), lực lượng bị suy yếu rõ rệt, Mỹ từ thế chiến lược phản công và tiến công giữa năm 1965, buộc phải lùi dần vào thế phòng ngự chiến lược bị động vào cuối năm 1967 trên toàn chiến trường.
Đối với ta,  tuy giành được nhiều thắng lợi, thế và lực của cách mạng đã có bước phát triển mới, nhưng chưa làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho cách mạng. Từ thực tế trên chiến trường, kết hợp với tình hình trong nước và quốc tế, cuối năm 1967, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân đội ta đã nắm lấy cơ hội này, quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới. Sau khi thảo luận kỹ khả năng đánh vào thành phố của lực lượng vũ trang và khả năng nổi dậy của quần chúng, Bộ Chính trị thông qua phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo đã được Quân ủy Trung ương nhất trí. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh. Cụ thể là: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng và các thành phố lớn.

Quân giải phóng trên đường vào Huế trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu.
Thực hiện chủ trương này, đêm 20 tháng 1 năm 1968, trước Tổng tiến công và nổi dậy 10 ngày, các sư đoàn chủ lực của ta nổ súng tiến công Khe Sanh. Ngay sau khi phát hiện chủ lực của ta đánh Khe Sanh, Bộ chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam lập tức điều thêm 12 tiểu đoàn thuộc sư đoàn kỵ binh bay, sư đoàn 101 không vận, sư đoàn thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa ra khu vực Đường 9 để đối phó.
Đúng lúc địch đang cố gắng điều động lực lượng cố giữ bằng được Khe Sanh, thì đêm 30 và 31-1-1968 – đêm giao thừa và mồng Một Tết Mậu Thân, lợi dụng địch sơ hở ở đô thị, quân ta đồng loạt tiến công vào Sài Gòn và hơn 40 thành phố, thị xã khác (4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần), làm cho Mỹ - Việt Nam Cộng hòa bị bất ngờ, không kịp trở tay đối phó.
Tại Sài Gòn - Chợ Lớn, là trọng điểm lớn nhất của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bởi vì đây là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam. Ta tiến công Toà đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hòa, Đài Phát thanh Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát; các sở chỉ huy sư đoàn bộ binh Mỹ số 1, 9, 25, 101. Hàng chục vạn quần chúng đã nổi dậy giành quyền làm chủ dài ngày ở nhiều khu phố. Riêng trận đánh Toà Đại sứ Mỹ hơn 6 tiếng đồng hồ với 17 chiến sĩ biệt động của ta đương đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ đã gây một tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ.
Ở mặt trận Trị Thiên, lực lượng ta tiến công Nhà Đèn, Ty Cảnh sát, Toà tỉnh trưởng, trụ sở cơ quan bình định và trụ sở MACV, Tri Bưu, Thành Cổ, La Vang, điểm cao 49. Nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng, Bến Đá rầm rộ nổi dậy cùng bộ đội địa phương bao vây địch ở trong các quận lỵ cầu Nhùng, Bến Đá làm chủ đoạn quốc lộ 1 từ Diên Sanh đến Mỹ Chánh; đánh chiếm quận lỵ Phú Lộc, cắt đứt quốc lộ 1 đoạn từ Đà Nẵng ra Huế, phá sập Cầu Hai, cầu Nước Ngọt, giải phóng khu vực xung yếu ven biển và phía nam Cầu Hai, khu vực Truồi.
Tại Huế, thành phố lớn thứ 3 miền Nam, hầu hết các cơ quan đầu não của địch bị ta đánh chiếm. Phối hợp với chủ lực, quần chúng nổi dậy lùng bắt ác ôn, phá bỏ bộ máy kìm kẹp, thiết lập chính quyền cách mạng cơ sở, xây dựng trận địa phòng thủ… Địch sau đó phản kích dữ dội. Ta và địch giành giật nhau từng góc phố, từng căn nhà, từng đoạn đường. Ngày 25-2, quân ta rút khỏi Huế để bảo toàn lực lượng. Như vậy, quân và dân ta đã làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm. Bị tiến công đồng loạt, bất ngờ, địch lúc đầu choáng váng. Chúng dồn về mặt trận đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm thời cơ, lực lượng vũ trang tại chỗ hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn.
Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, nhiều người hiểu Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta chỉ có ở Tết Mậu Thân, nhưng trên thực tế đây được xem như đợt 1, còn đợt 2 và đợt 3 diễn ra mùa hè và mùa thu năm 1968, tạo thành tổng thể cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968. Kết quả một năm tổng tiến công và nổi dậy, theo Thông cáo của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ngày 20-12-1968, quân và dân ta ở miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên Mỹ, Việt Nam Cộng hòa và quân của các nước đồng minh Mỹ; tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn, chiến đoàn, tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp; phá hỏng, phá huỷ 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu, xuồng chiến đấu trên sông, 700 kho đạn, 100 khẩu pháo các loại; diệt, bức hàng, bức rút 15.000 đồn bốt, chi khu.
Cùng với thắng lợi vang dội của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam và thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống phá hoại lần thứ nhất ở miền Bắc, quân và dân ta đã đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở đỉnh cao.Thắng lợi này tạo ra một bước ngoặt quyết định của chiến tranh,  đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm cho chúng hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam trong chiến tranh, buộc phải đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri, bàn về việc rút quân Mỹ khỏi miền Nam, kết thúc chiến tranh; đồng thời góp phần quan trọng cùng với cuộc đấu tranh của loài người tiến bộ, làm phá sản chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” thời Kennơđi - Giônxơn, tác động toàn diện đến tình hình quân sự, chính trị, tâm lý, xã hội nước Mỹ.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi khắc sâu vào lịch sử dân tộc như một bản anh hùng ca bất diệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đồng thời để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong các giai đoạn tiếp theo.






  






Không có nhận xét nào: