SƯU TẬP TL ĐỊA PHƯƠNG





Lịch sử hình thành Huyện Cần Giờ
   Lịch sử vùng đất Cần Giờ gắn liền với lịch sử 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Mảnh đất Rừng Sác Cần Giờ là một trong những nơi đặt chân sớm nhất của người Việt đi khai khẩn phương Nam. Cần Giờ là nơi chứng kiến bao sự kiện lịch sử bi hùng của đất nước: nơi Gia Long “tẩu quốc” bị quân Tây Sơn đánh bại ở “Thất Kỳ Giang”, nơi tàu chiến nước Pháp đầu tiên vào xâm chiếm Nam Bộ, một trong những địa bàn hoạt động của Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định, là căn cứ kháng chiến của Việt Minh, của quân Bình Xuyên trong thời kỳ chống thực dân Pháp, của đoàn 10 anh hùng trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ …Cùng với việc hình thành các cộng đồng dân cư sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy sản và khai thác các nguồn lợi thiên nhiên thông qua các hoạt động nông, lâm, diêm nghiệp, đời sống văn hóa, tinh thần của người dân nơi đây cũng ngày một phong phú, đa dạng, mang dấu ấn vừa chung lại vừa rất riêng với những tập tục mang đậm bản sắc dân tộc, và tiêu biểu là lễ hội Nghinh Ông hằng năm vào rằm tháng tám, thờ cúng thần Nông, thờ người có công với làng, với nước. Cùng với các lễ hội là các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thơ ca, hò vè mang đậm màu sắc dân gian truyền thống.

          Tuy vậy, trước 30-4-1975, Cần Giờ chỉ là căn cứ quân sự tiền tiêu của địch, canh phòng cho con đường thủy huyết mạch từ Biển Đông vào cảng Sài Gòn. Xung quanh đồn bốt địch là những vùng dân cư nghèo nàn, lạc hậu, bị chà đi xát lại bởi các cuộc hành quân bố ráp. Hơn hai triệu tấn bom đạn, hơn bốn triệu lít chất độc hóa học đã biến rừng ngập mặn thành bình địa trơ trụi, hệ sinh thái môi trường bị biến đổi nghiêm trọng.

          Sau 30-4-1975 Đảng bộ và nhân dân Duyên Hải tiếp một cơ ngơi hết sức khiêm tốn với 2.808 hécta đất trồng trọt (chủ yếu là trồng lúa một vụ với năng suất thấp), 42 máy cày,20 máy bơm, 3 cơ sở xay sát gạo loại nhỏ với hơn 100 xuồng máy, xuồng chèo. Về giao thông, với khoảng 10 tuyến đò dọc, đò ngang đưa người đi lại bằng đường sông; 3 xe ô tô, 4 xe lam, 93 xe gắn máy chạy trên đoạn đường bộ 13 cây số từ Cần Thạnh đến Đồng Hòa. Về ngư nghiệp, nghành kinh tế chủ lực cũng chỉ có 602 khẩu đáy cố định, 72 khẩu đáy chạy, đáy thùng, 30 khẩu đáy rạo, 164 ghe lưới, 95 ghe cào, te ven bờ ….

          Bắt tay vào khôi phục và xây dựng kinh tế xã hội của Duyên Hải sau giải phóng, với hành trang tinh thần là truyền thống cách mạng kiên cường và hành trang vật chất là sự nghèo nàn lạc hậu về kinh tế, khoa học, văn hóa, giáo dục, y tế, Đảng bộ huyện Duyên Hải ban đầu với 9 chi bộ và hơn 80 Đảng viên đã đối mặt ngay với nạn đói, nạn dốt và phải gấp rút tìm, giải quyết công ăn việc làm, học hành, chữa bệnh cho gần 24.000 dân trong huyện.

          Thuận lợi có nhiều nhưng khó khăn luôn luôn nhiều hơn, có những khó khăn trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua, vậy mà suốt 25 năm ấy (1975 - 2000) từ điểm xuất phát về kinh tế, xã hội thấp hơn nhiều so với các quận, huyện khác của thành phố, Đảng bộ Cần Giờ đã vững tay chèo, lãnh đạo nhân dân khai thác tiềm năng, tiềm lực sẵn có, cộng với sự hỗ trợ từ thành phố và Trung ương, từng bước khôi phục, xây dựng và phát triển Cần Giờ trở thành Huyện có kinh tế ổn định và tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế ngày càng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với trọng tâm hướng vào phát triển du lịch sinh thái, khai thác tiềm năng kinh tế biển, hình thành rõ nét thế mạnh theo cơ cấu kinh tế ngư – nông – lâm – dịch vụ.

          Những gì mà Cần Giờ đạt được trong 25 năm – ¼ thế kỷ qua “là kết quả của quá trình phấn đấu kiên trì, là kết tinh của trí tuệ, phẩm chất, khí phách của Đảng bộ và nhân dân Huyện Cần Giờ. Những kết quả đó không chỉ đánh dấu chặng đường phát triển mới của Huyện mà còn là tiền đề quan trọng cho sự phát triển trong những năm tiếp theo”.




Cần Giờ (Duyên Hải cũ) cách đây 35 năm
Xin được trở lại với cái tên cũ là Duyên Hải trong bài viết này, để nhớ cái thời gian khó của cuộc kháng chiến chống thực dân Mỹ cứu nước nơi vùng đất sình lầy ngập mặn này, và cũng để nhớ những tháng ngày xây dựng huyện biển xa xôi của TP.HCM.

Ngày đó cách đây gần 35 năm, sắc trời bàng bạc, nắng oi oi của những ngày cận Tết và gió chướng thổi bừng bừng. Cán bộ và nhân dân Duyên Hải râm ran nói về cái tin huyện nhà sẽ cắt từ tỉnh Đồng Nai để chuyển về TP.HCM. Lúc bấy giờ cái trên TP.HCM cũng còn lạ lẫm, khó hình dung và không dễ nhớ như hai chữ Sài Gòn. Điều suy nghĩ của mọi người đúng là sự thật: trong phiên họp ngày 12/01/1978 của Thường vụ Hội đồng Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng chủ toạ đã quyết định sáp nhập huyện Duyên Hải thuộc tình Đồng Nai về TP.HCM. Hồi đó thông tin còn hạn hẹp, chưa ai biết ngay, nhưng cũng đã thấy nhiều đoàn cán bộ đi đò từ thành phố xuống Duyên Hải, hoặc đi xe xuống Vũng Tàu rồi đi đò qua. Cả huyện lỵ có mấy khúc đường nên bà con nhận biết ngay đó là cán bộ của Sài Gòn. Đi tiên phong khảo sát nắm tình hình là các cán bộ của Sở Lao động, Sở Tài chánh, Ngân hàng thành phố, Sở Bưu điện, Sở Giáo dục, Uỷ ban Kế hoạch thành phố, Ban tổ chức chánh quyền, Ty lâm nghiệp, Ban chỉ đạo phân vùng quy hoạch, Sở thuỷ lợi, Viên quy hoạch, Ban chấp hành Nông hội thành phố v.v…Ngày 21/02/1978 đã diễn ra cuộc họp bản giao của hai đoàn đại biểu Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh Đồng Nai và Thành uỷ, UBND TP.HCM. Sau cuộc họp trên, trong 2 ngày 27 và 28/2/1978, đồng chí Nguyễn Thành Thơ, Uỷ viên Trung ương Đảng khoá IV- Phó Bí thư Thành uỷ kiêm Phó Chủ tịch TT UBND Thành phố đã dẫn đầu đoàn đại biểu 31 người, đại diện cho tất cả các sở ngành thành phớ đi đò xuống Duyên Hải nhận bàn giao cụ thể từng mặt công tác tại huyện với sự có mặt của đoàn đại biểu Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Đồng Nai và lãnh đạo huyện Duyên Hải đương nhiệm lúc bấy giờ là các đồng chí Trần Văn Cường, Đoàn Thành Chung, Đoàn Thanh Xuân, Đoàn Lê hoàng, Lê Văn Tiết.
Khi bàn giao, Tỉnh uỷ và UBND Tỉnh Đồng Nai xã xin được để lại trên 3.000 ha khu vực sông Gò Gia đến ngã ba sông Cái Mép và ngược theo sông Thị Vải. Như vậy diện tích huyện Duyên Hải được bàn giao cho thành phố ước khoảng 66.800 ha, trong đó đất trồng lúa khoảng 4.239 ha, đất trồng rừng và rừng khoảng 62.570 ha; ngoài ra còn có trên 17.000 ha ven biển và mặt nước sông. Tổng cộng khoảng trên 83.000 ha. Về dân số, lúc đó toàn huyện Duyên Hải có 5.457 hộ dân với 32.909 nhân khẩu.
Cũng trong thời gian bàn giao trên, toàn huyện mới có 365 hồ sơ liệt sĩ và 46 trường hợp thương binh được tỉnh Đồng Nai xét công nhận. Về bộ máy, Duyên Hải vào tháng 2/1978 có 833 cán bộ huyện - xã, 124 đảng viên chia thành 15 chi bộ cơ quan và 4 chi bộ xã (3 xã còn lại chưa thành lập được chi bộ là Tân An 1 đảng viên, An Thới Đông và Tam Thôn Hiệp mỗi xã 2 đảng viên). Trong 833 cán bộ huyện xã có 504 cán bộ và chiến sĩ cấp huyện, 329 cán bộ và chiến sĩ cấp xã - trong đó có 31 cán bộ biệt phái của huyện.
Đáng chú ý là hiện trạng lúc bàn giao như sau: Toàn huyện có 1 văn phòng UBND và 26 phòng ban nhưng chưa có Ban Tổ chức Chính quyền, Thanh tra, Quản lý nhà đất và Phòng thuế. Có 1 bệnh xá 34 giường, 1 tổ phòng dịch và 7 trạm y tế với 2 y sĩ, còn lại là y tá. Có 8 trường cấp 1, 2 trường cấp 2, 4 trường mẫu giáo với 137 giáo viên, số học sinh hiện ra lớp lúc bấy giờ là 5.392 em. Có 5 cửa hàng gồm: dược phẩm, bách hoá, vật tư, điện máy và hải sản. Về đoàn thể có 6.438 hội viên phụ nữ, 270 đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh, 3 cán bộ nông hội, không có tổ chức Công đoàn. Về nông nghiệp có 4.050 ha lúa, sản lượng 9.700 tấn. Về ngư nghiệp có 696 ghe, thuyền; 520 khẩu đáy sông cầu; 43 khẩu đáy rạo, 600 đập đìa; sản lượng thuỷ sản 6.500 tấn mỗi năm.Về lâm nghiệp có 12.000 ha rừng đước, xú, vẹt, phân bố thưa thớt. Có 120 ha diện tích sản xuất muối, sản lượng 7.200 tấn muối hạt. Về giao thông vận tải có 17 ghe tải, 1.477 ghe thuyền nhỏ, 5 xe lam chở khách, có 14 km đường ven biển nối Cần Thạnh - Đồng Hoà và 2,5 km đường nhỏ tại huyện lỵ.
Từ một số hiện trạng nêu trên, các cán bộ thành phố và tỉnh Đồng nai cũng nhận thấy huyện Duyên Hải vì là vùng sâu, vùng xa nên còn nhiều khó khăn, thiếu thốn; chỉ có TP.HCM vì gần gũi và thuận lợi hơn mới có khả năng giải quyết khắc phục và đầu tư xây dựng Duyên Hải đi lên nhanh chóng. Đặc biệt khi cả hai đoàn bàn giao - nhận lãnh của tỉnh Đồng Nai và TP.HCM còn thấy rõ quyết tâm của cán bộ huyện -xã đương nhiệm lúc bấy giờ để tổ chức và xây dựng bộ máy chính quyền non trẻ trên vùng đất khắc nghiệt, thiếu nước ngọt lại vốn là trọng điểm đánh phá của địch khi xưa.
Sau cuộc họp bàn giao và nhận lãnh, đại diện các sở - ban - ngành - đoàn thể thành phố đã thống nhất đề ra 16 mặt công tác lớn và trọng tâm. Ngày 17/03/1978, TT UBND Thành phố đã họp và quyết định thành lập Ban chỉ đạo của Đoàn phân vùng quy hoạch kinh tế huyện Duyên Hải, trong đó yêu cầu dự kiến quy hoạch cả về giao thông vận tải đường thuỷ, đường bộ. Cũng trong cuộc họp này, nhiều ý kiến đã đề cập đến việc: “làm đường bộ nối liền thành phố đến Duyên Hải - Cần Giờ cần khảo sát kỹ vì có nhiều sông lớn…” như gợi ý của đồng chí Võ Văn Kiệt - Uỷ viên Bộ Chính trị - Bí thư Thành uỷ lúc bấy giờ.
Cách đây 35 năm, việc sáp nhập Duyên Hải về TP.HCM không gây được sự chú ý đáng kể trong nhân dân các xã, trừ ra đối với một bộ phận cán bộ vì lý do biến động về mặt tổ chức, có lẽ do thông tin chưa liền lạc được như bây giờ. Một bộ phân cán bộ viên chức khác thì nao nao phấn khởi, họ chờ đợi xem từ sự tác động và đầu tư của thành phố, huyện Duyên Hải có bớt được khó khăn về đời sống hay không? Ngay từ đầu tháng 3/1978, cán bộ, viên chức huyện nhận lương từ thành phố đẫ thấy tăng thêm 6 đồng phụ cấp chênh lệch và 25% + 10% phụ cấp vùng Duyên Hải. (Ở thời điểm đó, xây dựng trường cấp 1 tốn có 9.200 đồng, xây dựng nhà ở cho cán bộ - viên chức chỉ tốn 15.000 đồng, xây dựng bệnh viên 100 giường tốn 100.000 đồng). Sau đó Sở Bưu điện thành phố lắp đặt ngay tổng đài điện thoại 50 số. Thành phố trang bị máy phát điện thay thế máy cũ của huyện để phục vụ thắp sáng mỗi tối, đồng thời đưa xuống phục vụ ngay một xà lan vận tải nước ngọt…
Đất lành chim đậu! Hưởng ứng lời kêu gọi của thành phố và huyện, cũng như nhiệt tình đóng góp và việc xây dựng huyện biển của thành phố, hàng năm hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ LLVT đã về công tác tại nơi này. Biết bao người đã trưởng thành, vững chãi, lớn lên cùng sự phát triển của vùng đầy khó khăn ngày nào.
Cần Giờ cách đây 35 năm - khi còn là Duyên Hải - kể ra cũng khó hình dung đối với lớp trẻ bây giờ khi mà nhịp sống vẫn đang cuồn cuộn và khi Cần Giờ đã, đang chuyển mình từng bước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá những ngành kinh tế chủ yếu của mình. Nếu có nhớ lại, cũng để tự hào rằng chúng ta đã dũng cảm vượt qua biết bao là khó khăn và đã nhanh chân đi vào thế kỷ 21 với nhiều niềm tin vào những mùa xuân đổi mới và hy vọng, kể cả mùa xuân này - mùa xuân đánh dấu 35 năm Cần Giờ - Duyên Hải sáp nhập vào TP.HCM.




Những sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa dân gian miền biển.
Cũng như các địa phương miền biển khác, lễ hội dân gian Cần Thạnh cũng hướng tới những đối tượng thiêng liêng. Đó là những hình ảnh, những biểu tượng hội tụ và kết tinh những phẩm chất cao đẹp của những người đi tiên phong khai hoang mở làng mở nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm, hay có công chống thiên tai, cải tại thiên nhiên, xây dựng cuộc sống…

Tín ngưỡng dân gian tại Cần Thạnh là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian của nhiều loại hình tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán. Cần Thạnh có vị trí địa lý và quá trình lịch sử tương đối đặc biệt, là cửa ngõ vào trung tâm kinh tế, xã hội vào loại bậc nhất khu vực. Tín ngưỡng dân gian ở Cần Thạnh vừa có nét chung của tín ngưỡng dân gian Nam Bộ, vừa có những nét riêng do sự ảnh hưởng trực tiếp của tín ngưỡng dân giao Trung bộ, lại có thêm biểu hiện sắc thái của sự giao tiếp giữa các vùng miền ấy. Các loại hình sinh hoạt văn hóa như: Lễ hội thờ cúng Thành Hoàng làng ở đình, miễu, Lễ hội Nghinh Ông, nghi lễ của các tôn giáo như: Cao đài, Thiên chúa giáo và Phật giáo. Cũng như các tín ngưỡng dân gian chung của dân tộc Việt nam, tín ngưỡng dân gian Cần Thạnh bao giờ cũng hướng tới những đối tượng thiêng liêng. Những đối tượng được suy tôn, ngưỡng mộ trong tín ngưỡng dân gian ở Cần Thạnh phản ánh phần nào đặc biệt riêng về quá trình hình thành, về nghề nghiệp và điều iện lao động sản xuất và xã hội của vùng đất này. Nó nói lên giá trị văn hóa, nét thẩm mỹ, thái độ tôn kính, ý thức tri ân và niềm tự hào về tổ tiên là thực tế, cụ thể, gắn với điều kiện nghề nghiệp và địa bàn sinh sống. Nó còn có giá trị giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, nghề nghiệp, củng cố tinh thần đoàn kết và khơi gợi sâu sắc lòng tự hào về vùng đất mà minh sinh sống.
Một đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng dân gian Cần Thạnh là gắn liền với nghề đánh bắt hải sản. Trên cơ sở đó đã định hình loại hình Lễ hội của một nhóm cộng đồng sinh sống trên cùng một địa bàn nhất định với nghề nghiệp nhất định, mang tính đặc trưng, được gõi chung là: Lễ hội Nghinh Ông. Ngày nay, lễ tục ấy vẫn được giữ gìn và phát triển, được ngư dân tổ chức hàng năm tại Lăng Ông Thủy Tướng, cầu cho xóm làng bình yên, mưa thuận, gió hòa, được mùa tôm cá… phản ánh phần nào nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, sôi động và có sức hấp dẫn đặc biệt của ngư dân.
Trong chiều sâu tâm thức, ngư dân đặt tin tưởng vào sinh vật khổng lồ vừa “hiền” vừa “thiêng” là loài cá voi hay cứu giúp người đi biển, mà họ gọi một cách kính trọng là cá Ông, hoặc Ông, dù rằng sự cứu giúp đó chỉ mang tính huyền thoại. Có rất nhiều danh rừ để gọi cá voi với sự cung kính: Ông Nam Hải, Ông Lớn, Nam Hải, Ông Khơi để chỉ cá voi sống ngoài biển khơi, Ông Lông để chỉ cá voi sống gần bờ.
Nơi thờ cá Ông, có nhiều cách gọi, riêng Cần Thạnh được gọi là Lăng Ông Thủy Tướng. Việc thờ cá Ông được quan niệm như là một cách đền ơn, đáp nghĩa theo Luật nhân quả của đạo Phật, coi cá Ông như thần hộ mạng giữa biển khơi đầy sóng gió. Niềm tin ấy được phản ánh trong nội dung các bài viết văn tế và cả trong tiềm thức của cư dân biển. Nếu như trong các văn tế Nghinh Ông của các miền Trung nghiêng về phần ngợi ca và gởi gắm niềm tin Ông về việc cứu người cứu thuyền trong cơn lâm nạn, thì nội dung văn tế trong Nghinh Ông từ Bà Rịa trở vào đến Cà Mau, Hà Tiên thường nhấn mạnh đến sự “phù hộ của Ông” để cho được mùa đánh bắt, tôm cá đầy hoang, tàu thuyền ra khơi về bến an toàn. Không khí của phần lễ cũng như của phần hội ở Cần Thạnh thường diễn ra sôi động và cuồng nhiệt, thu hút đông đảo thập khách các nơi về tham quan. Trong tâm linh của ngư dân, lễ hội Nghinh Ông không chỉ là dịp để bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn đối với một số vật thiêng mà còn gởi gắm vào đó cả niềm tin và hy vọng ở một vị thần hộ mạng, sẵn sàng cứu giúp họ trong cơn hoạn nạn, trong những lúc hiểm nghèo giữa nơi biển cả.
Trên địa bàn Cần Thạnh, có lăng thờ cá Ông, nằm ven bờ biển, có lưu giữ cốt cá Ông, đặt ở nơi hậu tẩm. Người dân làm nghề biển coi bộ cốt ấy là sự hiện diện cụ thể của đối tượng thiêng mà họ thờ cúng.
Nếu như lễ cúng Đình (Lễ Kỳ Yên) hàng năm ở làng quê là Lễ hội to nhất của cư dân trồng lúa nước và làm vườn, thì Lễ cúng cá Ông (Lễ Nghinh Ông) là Lễ quan trọng bậc nhất của ngư dân ven biển. Thành Hoàng hay những vị thần khác được thờ phụng Đình chỉ nằm trong quan niệm về cõi siêu linh, qua tưởng tượng, trong khi đó cá Ông, theo ngư dân là sinh vật thiêng ở biển, được biểu hiện bằng những bộ xương cốt đặt nơi khánh thờ, hay lăng thờ và cả những con cá Ông đang bơi, rủi ra, họ sẽ nhận được sự cứu giúp.
Lễ Nghinh Ông, hay còn gọi là Lễ tế, lễ rước, Lễ cúng cá Ông, tùy theo cách gọi của từng địa phương, ở nơi vạn chài, bến cá thuộc các xã biển từ vùng Ngũ Quảng trở vào Nam Bộ, về cơ bản không có gì khác biệt nhau lắm. Thời gian tổ chức giữa nơi này và nơi khác có thể chênh lệnh nhau, nhưng thường diễn ra trước mùa đánh bắt ở biển hoặc thời điểm mưa thuận, gió hòa để tổ chức Lễ cúng, Nghinh Ông…
Vì vậy, có nơi kết hợp Lễ Nghinh Ông với Lễ cầu ngư, mở đầu cho mùa cá mới của năm. Ở Cần Thạnh Lễ Nghinh Ông được tổ chức vào ngày 15/8 (Âm lịch). Hiện nay đã được từng bước chuẩn hóa và nâng cấp thành lễ hội cấp thành phố. Sự thờ cúng cá Ông tạo ra một Lễ hội trong đời sống văn hóa đặc sắc của Cần Giờ nói chung và đặc trưng riêng của Cần Thạnh.
Hiện nay, ngoài Lễ hội Nghinh Ông, Cần Thạnh còn có sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa của các miễu, đình, chùa, Tịnh độ Cư Sĩ, thánh thất, nhà thờ,… Lễ lệ mang ý nghĩa phụng tự, nhưng đã trở thành một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cộng đồng, có sức lan tỏa rộng rãi, tạo nên một cảm nhận chung về lòng biết ơn đối với công đức của các bậc tiền hiền trong gìn giữ phong tục tập quán.



Những sự kiện tiêu biểu trong giai đoạn 1996-2000:
Ngày 02/02/1996, kỳ họp lần thứ 4 HĐND huyện khóa VII đã ra Nghị quyết về xác định địa giới hành chính huyện Cần Giờ theo Chỉ thị 364/CT ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, trong đó khẳng định khu đất Gò Gia, diện tích 3.100ha là phần đất thuộc quyền quản lý của huyện Cần Giờ, TP.HCM, không chấp nhận ý kiến đề nghị của UBND huyện Tân Thành, tỉnh Đồng Nai và UBND huyện Châu Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Trong 02 ngày 02 và 03/11/1997 cơn bõa số 5 xảy ra đã gây thiệt hại rất lớn đến tài sản của nhân dân và nhà nước trên địa bàn huyện. Cơn bão làm chìm 7 ghe cào và 01 ghe lưới. 30 khẩu đáy sông cầu, 52 khẩu đáy rạo bị sập hoàn toàn, 1.500 căn nhà bị ngập nước từ 0,3 đến 0,5m, 169 căn nhà hư hại từ 20% đến 100%, 1.227 ha lúa đang trổ bông bị ngã đổ, 50ha đất nông nghiệp ven biển trồng mãng cầu, xoài bị nhiễm mặn, 1.700 ha nuôi nghêu, sò, 700ha đầm đập, ao, hồ nuôi thủy sản bị thất thoát lớn, 03 cống thủy lợi bị hư hỏng, toàn tuyến đê kè đá bờ biển Cần Thạnh, Long Hòa và Thạnh An bị sạt lở, hư hỏng nhiều đoạn.
Đây là một thiên tai nghiêm trọng gây thiệt hại lớn nhất từ trước đến nay đối với huyện. để nhanh chóng khắc phục hậu quả trong thời gian sớm nhất nhằm ổn định cuộc sống của nhân dân đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn, cơ nhỡ, tạo điều kiện khôi phục sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ngày 05/11/1997 Ban Thường vụ HU ra Chỉ thị số 12-CT/HU về việc tổ chức khắc phục hậu quả cơn bão số 5. Trong đó, xác định công tác tổ chức khắc phục hậu quả do cơ bão số 5 gây ra trên địa bàn huyện là nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt của đảng bộ và chính quyền địa phương. Cơn bão số 5 gây thiệt hại lớn ảnh hưởng đến vịêc thực hiện mục tiêu nhiệm vụ trong năm 1997 của d8ảng bộ và nhân dân Cần Giờ, ngày 05/11/1997 Ban Thường vụ HU ra Chỉ thị số 12-CT/HU về việc tổ chức khắc phục hậu quả cơn bão số 5, là nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt của đảng bộ và chính quyền địa phương.
Ngày 12/7/1997, Đ/c Nguyễn Minh Triết, Phó Bí thư TT Thành ủy và Đ/c Lê Thanh Hải, Phó Chủ tịch UBND thành phố cũng lãnh đạo các ban ngành thành phố mở hội nghị tại huyện, hỗ trợ huyện xây dựng cơ chế, chính sách nhằm triển khai dự án phát triển kinh tế, đầu tư nâng cấp và phát triển hạ tầng giao thông, xây dựng đô thị vệ tinh ven biển của thành phố ở huyện, thành lập quỹ bảo vệ môi trường sinh thái ở Cần Giờ. Phát biểu tại buổi làm việc, Đ/c Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh Cần Giờ là huyện khó khăn nhất của thành phố, thành phố cần phải giúp huyện phát triển kinh tế - xã hội để rút ngắn khoảng cách so với các quận, huyện khác; Đ/c đề xuất lập Ban Chỉ đạo phát triển huyện Cần Giờ nhằm giúp Thành ủy, UBND thành phố tháo gỡ những vướng mắc, đưa Cần Giờ phát triển tren cơ sở đựa vào tiềm năng của chính mình.
Ngày 21/01/2000, Tổng thư ký Tổ chức Giáo dục- Khoa học-Văn học của Liên Hợp quốc (UNESCO) đã ký quyết định công nhận rừng ngập mặn Cần Giờ là Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn thế giới đầu tiên của Việt Nam, chính thức gia nhập mạng lưới 369 Khu dự trữ sinh quyển của 91 nước trên thế giới. Việc gia nhập mạng lưới các khu dự trữ sinh quyển quốc tế đã chứng minh năng lực và sự đóng góp hiệu quả của Việt Nam nói chung, của TP.HCM và Cần Giờ nói riêng vào sự nghiệp giữ gìn các giá trị văn hóa và bảo tồn thiên nhiên cho nhân loại. Tính đến năm 2000, rừng ngập mặn có tổng diện tích 38.556ha, phủ xanh 54,75% tổng diện tích của huyện, Trong đó có 30.162 ha rừng phòng hộ, gồm 8.912 ha rừng tự nhiên tái sinh, 1.000ha rừng trồng tự túc của dân và gần 20.250ha rừng trồng lại từ năm 1978. Rừng ngập mặn Cần Giờ được khôi phục trong hơn 20 năm đã góp phần tái tạo và cân bằng hệ sinh thái, môi trường phía Đông Nam thành phố và các tình lân cận. Sự phát triển của rừng ngập mặn Cần Giờ đã tác động thúc đầy sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Ngày 13/4/2000, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra Quyết định số 06/2000/QĐ.BVHTT công nhận di chỉ khảo cổ học Giồng Cá Vồ thuộc xã Long Hòa, huyện Cần Giờ là di tích khảo cổ học, nằm trong số di tích lịch sử văn hóa của quốc gia cần được bảo vệ.
Ngày 28/4/2000, Chủ tịch Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương đã ký Quyết định số 160/KT.CTN tặng thưởng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho đảng bộ, dân và quân Cần Giờ vì những công lao đóng góp và thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngày 26/7/2000, kỳ họp lần thứ 3 HĐND huyện Cần Giờ khóa VIII, xét Tờ trình số 377/TT-UB ngày 21/7/2000 của UBND huyện, đã thông qua Nghị quyết về việc đề nghị thành lập thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, trên cơ sở toàn bộ diện tích (2.408,93ha) và dân số (9.577 người) của xã Cần Thạnh, huyện Cần Giờ.
Những Nghị quyết, Chỉ thị chủ yếu và chương trình trọng tâm của đảng bộ.
Nghị quyết năm 1996: thực hiện quyết định của HU về những trọng tâm chỉ đạo trong năm 1996, kỳ họp lần thứ 4 HĐND huyện khóa VII, họp ngày 01/2/1996 đề ra các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 1996, trong đó, tổng giá trị sản xuất 582 tỷ đồng, tăng 30% (ngư nhgiệp tăng 27%, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 45%, nông lâm nghiệp tăng 24%). Kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1,5 đến 2 triệu USD. Giải quyết việc làm cho 2.300 lao động. Hoàn thành công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Huy động 70% trẻ vào trường mầm non, 95% trẻ vào lớp 1, học sinh tốt nghiệp các cấp đạt trên 90%, tốt nghiệp tiểu học trên 95%. Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,04% so với năm 1995, đạt chỉ tiêu CPR 57%. Thu nhập bình quân đầu người tăng 30%/năm. Hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho dân. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6.830 triệu, tăng 14%.
Ngày 27/5/1996, HU ra Nghị quyết số 03-NQ/HU về việc thành lập Ban Chủ nhiệm các chương trình trọng điểm nhằm triển khai Nghị quyết đại hội đảng bộ huyện lần thứ VII. Các Ban Chủ nhiệm chương trình trên cơ sở quán triệt quy hoạch kinh tế - xã hội (1996-2010) của huyện và Nghị quyết đại hội đại biểu huyện đảng bộ lần thứ VII, nghiên cứu, đề xuấtvới HU và UBND huyện cụ thể hóa Nghị quyết của đại hội đảng bộ huyện về 5 chương trình trọng điểm thành các Nghị quyết chuyên đề, kế hoạch, các dự án và biện pháp triển khai thực hiện.
Ngày 18/3/1997, Ban Thường vụ HU ra Nghị quyết số 04-NQ/HU về tăng cường lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Thực hiện Chỉ thị 15-CT/TW của Bộ Chính trị, Quyết định 240/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Quyết định 114/TTg của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 04-NQ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy (khóa V), từ năm 1993 đến đầu năm 1997, công tác chống tham nhũng ở huyện đã thu được một số kết quả nhất định. Các ngành chức năng đã điều tra, phát hiện và xử lý 18 vụ tham nhũng, trong đó có 02 vụ tham ô, 01 hối lộ, 15 vụ cố ý làm trái nguyên tắc quản lý kinh tế. Tổng số tài sản thiệt hại do các hành vi phạm tội gây ra là 3,361 tỷ đồng, 119.500USD và 475.538m2 đất. trong đó, tham ô 24,493 triệu đồng, hối lộ 10 triệu đồng và 100USD, cố ý làm trái nguyên tắc quản lý kinh tế là 3,228 tỷ đồng, 19.500USD và 475.538m2 đất. Đã thu hồi được 1,953 tỷ đồng và 475.538m2 đất. xử lý kỷ luật đối với 18 đối tượng vi phạm.
Đầu năm 1997, HU tiến hành tổng kết việc triển khai thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị (khóa VI) về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nhìn chung, số lượng tín đồ các tôn giáo tại Cần Giờ không nhiều, gồm 03 tôn giáo chính là Cao Đài (đông nhất với 5.854 tín đồ) theo hai hệ phái Phật Giáo và Thiên Chúa giáo (với 442 tín đồ). Sinh hoạt của các tôn giáo tại huyện chủ yếu mang tính địa phương, tương đối khép kín. Chức sắc, tín đồ các tôn giáo ở huyện có thái độ tốt, tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện ở địa phương. Một số chức sắc tham gia hoạt động trong Ủy ban MTTQ, HĐND huyện, xã.
Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương đảng khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành đảng bộ thành phố khóa VI về giáo dục - đào tạo và cụ thể hóa Nghị quyết đại hội VII của đảng bộ huyện, Ban Chấp hành đảng bộ huyện quyết định thông qua chương trình “Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực huyện Cần Giờ đến năm 2000” với mục tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo lực lượng lao động có kiến thức, văn hóa, chuyên môn kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu xây dựng phát triển huyện. Phấn đấu đến năm 2000 nâng mặt bằng dân trí của huyện lên lớp 5 và đạt tiêu chuẩn quốc gia về phổ cập THCS cho thiếu niên trong độ tuổi. Cán bộ, công chức về văn hóa phải đạt lớp 12 và về chuyên môn tối thiểu phải đạt trung cấp hoặc cao đẳng.
Cần Giờ là huyện miền biển mà lao động ngư nghiệp, lâm nghiệp và nghề muối có khoảng 9.843 người, chiếm 33% lao động và 17% dân số. Đây là những lao động trong các ngành sản xuất quan trọng, có đóng góp to lớn trong các giai đoạn cách mạng, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Để tăng cường công tác quần chúng của đảng bộ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và phát triển huyện, căn cứ vào điều lệ của Hội Nông dân Việt Nam, HU Cần Giờ chủ trương tổ chức xây dựng Hội Nông dân trong lao động ngư nghiệp, lâm nghiệp và nghề muối. Ngày 10/7/1997, Ban Thường vụ HU ra Chỉ thị số 07-CT/HU về việc lãnh đạo xây dựng Hội Nông dân trong lao động ngư nghiệp, lâm nghiệp và nghề muối. Trong đó, Ban Thường vụ chỉ thị cho cấp ủy đảng các xã phối hợp chặt chẽ với HĐND huyện lãnh đạo thực hiện tốt việc xây dựng Hội Nông dân trong lao động ngư nghiêp, lâm nghiệp và nghề muối ở xã mình, thường xuyên giúp đỡ Hội trong việc xây dựng nội dung hoạt động phù hợp với tình hình địa phương, quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng hoạt động của Hội.
Giữa năm 1997, Liên đoàn Lao động huyện có 30 tổ chức Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn, gồm 25 Công đoàn cơ sở với 955 công đoàn viên, 05 nghiệp đoàn tổ chức người tham gia. Tuy phát triển về tổ chức, song ngoài một số công đoàn cơ sở hoạt động có chất lượng, số còn lại không có chương trình hoạt động rõ ràng, tổ chức mang lại tính hình thức. Sự yếu kém của công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn diễn ra trong một thời gian dài là do Liên đoàn Lao động huyện chưa có những hướng dẫn kịp thời, đảng bộ chi bộ cơ sở thiếu sự quan tâm lãnh đạo, đa số công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn không cí kinh phí để tổ chức hoạt động…
Nhằm củng cố, xây dựng tổ chức công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn vững mạnh, đủ sức tập hợp, đoàn kết người lao động trong các đơn vị sự nghiệp, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế… qua đó vận động công nhân viên chức và người lao động hăng hái thi đua lao động, tham gia quản lý cơ quan xí nghiệp, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, ngày 10/7/1997, HU ban hành Chỉ thị số 08-CT/HU về việc lãnh đạo đại hội công đoàn cơ sở. Chỉ thị nêu rõ các chi, đảng bộ cơ sở phải chú ý lãnh đạo các công đoàn cơ sở tiến hành đại hội với yêu cầu thông qua kiểm điểm, đánh giá thực chất hoạt động trong nhiệm kỳ mới theo hướng củng cố kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động, phát huy dân chủ, chăm lo lợi ích thiết thực của đoàn viên. Giao cho Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động huyện có kế hoạch hướng dẫn chi tiết yêu cầu, phương pháp tiến hành đại hội công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn.
Tháng 3/1998, HU Cần Giờ tổ chức sơ kết một năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/HU về thực hiện Luật Hợp tác xã và Chỉ thị 68-CT/TW về phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn huyện. HU nhận định, sau ngày giải phóng, mô hình Hợp tác xã, tập đoàn, tổ sản xuất ở huyện đã được hình thành và hoạt động theo phong trào chung của thành phố và cả nước. Cùng với kinh tế quốc doanh và các thành phần kinh tế khác, kinh tế tập thể đã góp phần phát triển sản xuất theo chủ trương chính sách của đảng và nhà nước. Mặt khác, kinh tế hợp tác còn là nhân tố tạo ra sự đoàn kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong nội bộ xã viên cũng như trong xã hội. Tuy nhiên, trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, phần lớn các hợp tác xã, tổ hợp tác ở huyện chỉ tồn tại trên danh nghĩa, hiệu quả hoạt động kém, đời sống xã viên khó khăn, trong khi đó bộ máy quản lý lại cồng kềnh, khả năng điều hành yếu.
Thực hiện Nghị quyết đại hội đảng bộ huyện lần thứ VII, căn cứ điều kiện kinh tế, năng lực tổ chức thực hiện và khả năng huy động nguồn lực hoc chương trình, ngày 24/4/1998, HU Cần Giờ ban hành chương trình số 11/Ctr-HU “Giảm hộ nghèo, nâng cao mức sống nhân dân đến năm 2000”.
HU xác định đến năm 2000, chương trình “giảm hộ nghèo, nâng cao mức sốnh nhân dân” tiếp tục được xem là một trong những chương trình quan trọng, được triển khai thực hiện với quy mô cao hơn, phạm vị rộng hơn, với sự tham gia tích cực của toàn xã hội. Mục tiêu của chương trình là phấn đấu không để xảy ra tình trạng đói trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Phấu đấu trong năm 1998 giảm 5% số hộ nghèo (200hộ), năm 1999 giảm 10% và năm 2000 đạt mức giảm 20% để đến cuối năm 2000 tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện hạ xuống còn 20% so với 39% như hiện tại (tháng 4/1998). HU cũng xác định các chính sách cụ thể đối với hộ nghèo thuộc diện xã hội và đối với hộ nghèo có khả năng như tạo việc làm, cấp đất, bãi bồi, cho vay vốn và các giải pháp về chính sách xã hội.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành huyện đảng bộ Cần Giờ (khóa VII) đề ra chương trình hành động của HU thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Hội nghị thống nhất đánh giá: đại bộ phận cán bộ, đảng viên giữ được phẩm chất tốt, lối sống lành mạnh, chịu khó học tập nậng cao trình độ nhận thức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, giữ được nhiệt tình cách mạng, bản lĩnh chính trị, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc, với xã hội… Trong nhân dân, nhìn chung giữ được các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như lòng yêu nước, yêu quê hương, tình thần lao động cần cù, tinh thần đoàn kết, lối sống lành mạnh, nhân nghĩa, cần kiệm, tôn trọng kỷ cương phép nước. Tinh thần hiếu học của thanh thiếu niên được nâng lên. Những giá trị đạo đức truyền thống đã và đang được phát huy trong nhiều phong trào quần chúng rộng rãi. Việc giữ gìn và phát huy các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc luôn được đảng bộ huyện quan tâm, các sinh hoạt văn hóa truyền thống như lễ hội ngư dân vùng biển được khuyến khích. Các phong trào quần chúng được phát động thường xuyên để nâng cao nhận thức về cội nguồn, về đạo đức, tình người. Nhờ vậy, các tệ nạn xã hội được ngăn chặn có hiệu quả, hoạt động văn hóa có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, quan liêu, cửa quyền sách nhiễu dân, lợi dụng chức quyền để tham nhũng… Một bộ phận nhân dân ý thức chấp hành pháp luật còn kém. Tình trạng mê tín dị đoan, tình trạng sử dụng văn hóa phẩm độc hại chưa được ngăn chặn hoàn toàn, tạo ra những ảnh hưởng xấu về đạo đức, nhất là ở lứa tuổi thanh, thiếu niên. Cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động văn hóa lành mạnh còn thiếu. Mức hưởng thụ văn hóa của người dân giữa các xã trong huyện chưa đồng đều.
Chương trình hành động của HU đề ra một số nhiệm vụ cần tập trung giải quyết cho tới đại hội VIII của đảng bộ huyện, bao gồm: Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tiếp tục xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội. Xây dựng và triển khai thực hiện các đề án bảo tồn các di tích văn hóa lịch sử, cách mạng. HU chủ trương mở cuộc vận động giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống và xây dựng đời sống văn hóa trong nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của đảng trên lĩnh vực văn hóa, cụ thể các cấp ủy đảng phải luôn coi trọng việc lãnh đạo phát triển văn hóa ở đơn vị, địa phương mình, khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa.
Ngày 31/7/1998, Ban Thường vụ HU đã đề ra Chỉ thị cho các ấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể tổ chức quán triệt sâu sắc trong cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về cuộc vận động xây dựng nhà tình thương nhằm kế thừa và nối tiếp phong trào xây dựng nhà tình nghĩa. Khẳng định ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn của cuộc vận động này, HU xác định mục tiêu đến năm 2000 cơ bản xóa được nhà lụp xụp, xiêu vẹo, rách nát ở huyện. Trước mắt, trong năm 1998 tập trung giải quyết 250 căn nhà tình thương cho những hộ khó khăn, coi đây là công trình chào mừng kỷ 300 năm TP.HCM và 20 năm Cần Giờ sáp nhập về thành phố. Cùng với Chỉ thị nói trên, Ban Thường vụ HU đồng thời ban hành Chỉ thị số 20-CT/HU ngày 23/9/1998 về việc chăm lo nhà ở cho cán bộ, công nhân viên, giáo viên, sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện. Theo đó, đến tháng 9/1998, trên toàn huyện còn có 266 trường hợp cán bộ, công nhân viên, giáo viên, sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã có gia đình nhưng đang gặp khó khăn về nhà ở, phải ở chung với cha mẹ, anh, chị, ở tập thể cơ quan, cá biệt có trường hợp phải thuê nhà dân để ở.
Ngày 23/9/1998, Ban Thường vụ HU ra Chỉ thị số 21-CT/HU về việc đẩy mạnh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp đất đai. Theo đó, đến tháng 9/1998, đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho 5.484 hộ với diện tích 5.679ha, đạt tỷ lệ 92,76% tổng số hộ. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm muối được 672/1.382ha, cho thuê 1.188 ha đất bãi bồi, mặt nước ven sông, ven biển để nuôi trồng thủy sản… Tuy nhiên như vậy vẫn là chậm so với kế hoạch chung của thành phố và chưa triển khai thực hiện việc đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ mẫu cũ do thành phố quy định 9màu xanh) sang mẫu thống nhất trong cả nước do Trung ương quy định (màu đỏ). Bên cạnh đó, công tác giải quyết tranh chấp đất đai cũng còn nhiều hạn chế.
Hội nghị Ban Thường vụ HU lần thứ 64 họp ngày 7 và 8/01/1999 đã thảo luận và thông qua Nghị quyết của Ban Chấp hành đảng bộ huyện về chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản của huyện vững mạnh, xứng đáng là đội hậu bị vững chắc của đảng. Tính đến đầu năm 1999, toàn huyện có 12 đoàn cơ sở, 72 chi đoàn bộ phận với 910 đoàn viên, chiêm tỷ lệ 7,6% trong tổng số 11.922 thanh niên. Tất cả các xã đều có đoàn cơ sở. Đoàn viên trong trường học chiếm tỷ lệ 49%, trong thanh niên xã chiếm 34,7%, trong cơ quan, doanh nghiệp chiếm 8,9%, trong lực lượng vũ trang là 7,4%. Huyện đoàn đã thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên cấp huyện và tập hợp được 651 thanh niên vào 31 đội nhóm ở cơ sở. Có 109 đảng viên tham gia sinh hoạt đoàn 9tỷ lệ 12%). Đoàn viên có trình độ văn hóa cấp II là 3%, cấp III là 8,4%, đại học là 3,6% có trình dộ lý luận chính trị sơ cấp là 5%, trung cấp là 1,6%, không có cao cấp lý luận chính trị. Đội ngũ cán bộ đoàn toàn huyện có 118 Đ/c, trong đó có 55 đảng viên, chiếm tỷ lệ 46,6% trên tổng số cán bộ đoàn haọt động. Ban Chấp hành đoàn từ huyện đến cơ sở có nhiều cố gắng trong việc xây dựng phong trào phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Tháng 3/1999, HU Cần Giờ tổ chức sơ kết 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị và chương trình của Thành ủy về công tác phụ nữ trong tình hình mới. Kết quả đáng khích lệ như sau: Đến đầu năm 1999 có 1.000 người ổn định công việc ở khu vực Nhà nước tại huyện và các khu chế xuất, khu công nghiệp tại thành phố, trên 5.000 người ổn định ở các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ, số còn lại là lao động thời vụ… HU đã có chủ trương ưu tiên tỷ lệ phụ nữ phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, kiến thức, trình độ cho phụ nữ, giúp phụ nữ nâng cao kiến thức để xây dựng gia đình, giáo dục con cái, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhờ vậy tới 3/1999 tỷ lệ phụ nữ ở độ tuổi dưới 35 mù chữ chỉ có trên 35.000 lượt phụ nữ dự nghe các chuyên đề nâng cao kiến thức mọi mặt. Đã có 200/638 cán bộ nữ được đào tạo đại học (60 chị), cao cấp, trung cấp chuyên ngành và lý luận chính trị, sinh ngữ. Năm 1993 đảng viên nữ chiếm 14,43%, đến năm 1999 chiếm 15,11%. Huyện đã quy hoạch được 37/638 cán bộ chủ chốt nữ. Hội Phụ nữ các cấp đổi mới phương thức hoạt động, tập hợp phụ nữ đủ mọi lứa tuổi vào các loại hình sinh hoạt, các phong trào Hội đạt kết quả tốt.
Kim Phúc







Tên di tích: Căn cứ Rừng Sác Cần Giờ.
Loại di tích: Di tích lịch sử.
Quyết định: Số 101/2004/QĐ-BVHTT ngày 15/12/2004.
Địa điểm: Xã Long Hòa, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh. 
Thông tin về di tích: Nếu nói địa đạo Củ Chi là "căn cứ chìm" thì Rừng Sác là “căn cứ nổi”. Trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt của một chiến khu trên mặt nước, lại ở vị trí “sân sau” quân thù, để đảm bảo sự tồn tại và tiến công được, lực lượng Đặc khu Rừng Sác phải xây dựng theo hướng đặc công hóa toàn bộ về tổ chức và hoạt động. Do đó, từ một tổ chức quân sự toàn diện (phụ trách cả quân dân chính đảng địa phương), Đặc khu đi vào chuyên môn hóa (đặc công nước, đặc công bộ, pháo đặc công....) và trở thành một trung đoàn đặc công gọi là “đoàn 10 Rừng Sác”, thực hiện những nhiệm vụ quân sự. Sự tồn tại của một lực lượng quân sự “xuất quỷ nhập thần” ở một chiến khu trên mặt nước đã buộc Westmreland phải thừa nhận: những người lính Mỹ ở đây đã gặp phải “một cuộc chiến đấu kỳ lạ trong một cuộc chiến tranh kỳ lạ”.
Chiến khu Rừng Sác nằm ở phía Đông Nam thành phố, là một vùng rừng đước, chà là ngập mặn rộng đến 600 hecta, phía Bắc là khu lòng chảo Nhơn Trạch, phía Đông là quốc lộ 15, phía Tây là sông Soài Rạp, phía Nam kéo dài sát biển Đông. Rừng Sác là nơi tập hợp của hàng trăm sông rạch lớn nhỏ, chằng chịt ngang dọc ngoằn ngoèo như mạng nhện, tạo nên những đảo triều xúp nổi giữa mênh mông nước (diện tích mặt sông rạch chiếm 1/4 diện tích toàn Rừng Sác). Quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống sông rạch ở Rừng Sác là sông Lòng Tàu - tên gọi gộp nhiều đoạn sông dài 45km nối biển Đông ở cửa biển Gành Rái lên ngã ba sông Đồng Tranh, sông Nhà Bè vào Cảng Sài Gòn. Sông rạch, đảo triều, rừng cây làm cho Rừng Sác trở thành một khu vực cực kỳ hiểm trở, một “trận đồ bát quái”. 
Rừng Sác vì thế, từ những thế kỷ trước đã được Nguyễn Huệ, rồi Trương Định chọn làm căn cứ địa. Trước Cánh mạng Tháng Tám, nơi đây là địa bàn trú ẩn của những người có chí khí khai sơn phá thạch, khuấy nước chọc trời, cát cứ một cõi, những người trốn lính, phu, thuế, cờ bạc, hút chích bị chính quyền thực dân truy nã; những người là hảo hớn gian hồ, đảng cướp lưu manh, bị xã hội dồn đến chân tường, sống ngoài vòng pháp luật.
Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, đặc khu rừng Sác (Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh) được coi là “căn cứ nổi” của bộ đội đặc công, nơi đây đã diễn ra hơn nghìn trận đánh xuất quỷ nhập thần khiến quân địch vô cùng khiếp sợ. Đồng thời, rừng Sác còn là địa danh gắn liền với tên tuổi và ý chí ngoan cường, dũng cảm của một thế hệ bộ đội đặc công ... 
Với địa thế đặc thù hiểm trở ấy, rừng Sác trở thành một “đầm lầy tử địa” nằm sát “sân sau” thủ phủ Việt Nam cộng hòa, buộc tổng hành dinh Sài Gòn phải đặc biệt quan tâm, liên tục tung quân càn quét. Năm 1963, tại căn cứ rừng Sác chính thức thành lập trạm tiếp nhận hàng quân sự từ ngoài Bắc chuyển vào. Một năm sau, Bộ tham mưu Miền đã cử một phân đội cắm chốt tại đây để tiện làm nhiệm vụ, sau đó phối hợp với đội công binh thuỷ hình thành đoàn 125. Tháng 1/1966, do yêu cầu tác chiến và biên chế lực lượng tăng lên, đoàn 125 đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 43, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và các cơ quan dân, chính, đảng của 10 xã bao quanh địa bàn rừng Sác. Từ đây đặc khu rừng Sác có nhiệm vụ chủ yếu là án ngữ đường thủy chiến lược Lòng Tàu, phá hủy các kho tàng, bến bãi của địch (trong đó có thành Tuy Hạ) và bảo vệ bàn đạp cho lực lượng tiếp tế của ta. 
Trải qua nhiều trận đánh lớn nhỏ cả thất bại và thành công, rút kinh nghiệm quy mô tác chiến, tháng 6/1966 đặc khu rừng Sác được Bộ chỉ huy Miền quyết định chuyển hướng từ hợp quân sang chuyên môn hóa mang phiên hiệu mới là “Đoàn 10 đặc công rừng Sác” để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng đánh vào đầu não quân địch. Áp dụng chiến thuật đặc công nước bí mật, nhỏ lẻ, thọc sâu, chắc thắng Đoàn 10 đặc công rừng Sác đã làm nên bao chiến công hiển hách, lịch sử còn ghi. Những dấu tích trong trận Lôi Giang, Giàn Xây, Vàm Sát, Đồng Tròn... như một biểu tượng minh chứng cho nghệ thuật tác chiến độc đáo và tinh thần dũng cảm của những chàng trai trẻ mình trần dầm nước tìm diệt quân thù. Bất chấp rừng thiêng nước độc, thuồng luồng, cá sấu rình rập, tính mạng hiểm nguy họ vẫn bám trụ kiên cường suốt 9 năm (1966-1975) đạn bom cày xới, chất độc ngập tràn trong kế hoạch “khống chế mặt nước” của quân đội Mỹ. 9 năm với hơn 1000 trận đánh tiêu diệt hàng trăm tầu, xuồng, phương tiện chiến tranh, loại khỏi vòng chiến đấu gần 1 vạn tên địch, đặc khu rừng Sác mãi là niềm tự hào của quân và dân miền Đông Nam bộ, nơi “tiếp lửa” truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay. Bức tượng đài tưởng niệm vong linh 860 chiến sỹ đặc công rừng Sác vẫn còn đó, uy nghi lẫm liệt cùng những dòng chữ tạc vào thời gian mãi trường tồn uy danh rừng Sác: “LòngTàu, Tuy Hạ, Nhà Bè đó/ Khói lửa ngút trời sử sách ghi”.








 Địa bàn huyện Cần Giờ trước đây có thuộc tỉnh Đồng Nai không

Địa bàn huyện Cần Giờ từ năm 1954–1975 có nhiều biến đổi trong các đơn vị hành chính của chính quyền Sài Gòn cũng như sự phân chia chiến trường về phía cch mạng.
Huyện Duyên Hải thành lập ngày 5-1-1968. Lúc ấy, huyện gồm 12 xã: Cần Thạnh, Đồng Hoà, Long Sơn, Long Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh, Tân Thạnh, Thạnh An, Tam Thôn Hiệp, An Thới Đông, Lý Nhơn và Bình Khánh.
Từ khi tỉnh Đồng Nai thành lập năm 1975, Cần Giờ thuộc huyện Duyên Hải, trực thuộc địa bàn tỉnh Đồng Nai (gồm các xã An Thới Đông, Bình Khánh, Cần Thạnh, Long Hoà, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp, Tân An).
          Ngày 29-12-1978, Quốc hội nước Cộng hoà X hội Chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định sáp nhập huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai vào địa bàn của thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 18-12-1991, huyện Duyên Hải được đổi thành huyện Cần Giờ.





Đình Bình Khánh và mộ tiền hiền Trần Quang Đạo – Một di tích lịch sử về người anh hùng có công khai khẩn vùng đất Bình Khánh hôm nay.


Căn cứ vào sổ địa bạ Triều Nguyễn năm 1836 thì lúc đó cả vùng Bình Khánh chỉ có 01 chủ đất là cụ Trần Văn Đạo với 62 mẫu ta đất. Ông là tiền hiền có công huy động người dân khai phá đất đai lập xóm làng, ước đoán 40 năm sau cụ Trần Văn Đạo mất (kể từ 1836) làng Bình Khánh đã được lập. Người dân xây dựng ngôi đình Bình Khánh cạnh nơi ngôi mộ ông và thờ cúng Tôn Trần Văn Đạo tức Trần Quang Đạo là Thần Thành Hoàng thì đình được xây dựng cuối thế kỷ 19 và vào khoảng những năm 1880, cách nay chừng 129 năm.
Tháng 8/1948, dưới sự chỉ đạo của Chi bộ xã Bình Khánh, dân quân, du kích và đông đảo quần chúng trong xã thực hiện tháo dỡ đình do bọn Pháp pháo kích làm đình bị cháy.
Năm 1958, đình được xây dựng lại tại điểm giáp sông Nhà Bè (nay là vị trí bên phải bến phà Bình Khánh hướng từ đường Rừng Sác về thành phố) nhưng do bờ sông sạt lở nên năm 1963, đình phải cất lùi vào trong (nay là khu phố 1 bến phà Bình Khánh).
Năm 1986, đình được di dời về vị trí đúng ngôi đình thuở ban đầu cho đến nay, với những giá trị lịch sử gắn liền với đình vào ngày 02/5/2012 đình được Ủy ban nhân dân thành phố công nhận là di tích lịch sử của thành phố.
(Thông tin bài viết và hình ảnh do Phòng Văn hóa - Thông tin cung cấp)



Đình Cần Thạnh - Cần Giờ - Một di tích kiến trúc nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh.


Theo các tư liệu lịch sử, đình Cần Thạnh – Cần Giờ đã được xây dựng vào năm Mậu Dần – 1818. Đình thờ tự Thành Hoàng Bản Cảnh, Tả Ban – Hữu Ban, Tiền Hiền, Hậu Hiền, Đông Hiến, Tây Hiến, Biền Binh, Lịch Đại, Thần Nông, Tiên Sư; Ngoài ra, đình còn là nơi hội họp, sinh hoạt văn hóa tinh thần của dân làng.
Lễ hội Kỳ Yên được diễn ra hàng năm vào ngày 15-16-17 tháng chạp.
Đình được Vua Tự Đức sắc phong Thành Hoàng Bản Cảnh vào ngày 29 tháng chạp năm Nhâm Tý – 1852.
Đình Cần Thạnh trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo đình vẫn giữ được nét kiến trúc xưa, là một di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của huyện Cần Giờ; Với kiến trúc nhà chữ “Tam” gồm phần chính điện, hậu điện và tiền điện hài hòa lưu giữ được nét kiến trúc xưa, với những hiện vật, di vật có giá trị hàng năm gắn liền với di tích.
Vào ngày 27/10/2006, Đình Cần Thạnh được Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.
(Thông tin bài viết và hình ảnh do Phòng Văn hóa - Thông tin cung cấp)





Khái quát chung về hệ thống di tích khảo cổ học của Cần Giờ
Huyện Cần Giờ đến nay đã phát hiện được 26 di tích khảo cổ học:
1. Giồng Am (cũng là Giồng Sấu)
2. Giồng Cá Trăng
3. Núi Đất Lớn (Cũng là rạch Gốc Tre Lớn)
4. Mũi Gành Rái
5. Gò Ba Động
6. Giồng Cháy
7. Giồng Lá Buông
8. Giồng Đất Đỏ
9. Giồng Cây Trôm Lớn
10. Gò Đất (Tắc Ông Thọ)
11. Giồng Phệt
12. Giồng Cá Vồ
13. Giồng Thị (cũng là Giồng Ao)
14. Giồng Dinh Bà
15. Giồng Da
16. Giồng Cây keo
17. Bến Xa
18. Giồng Ông Mai
19. Giồng Lò Than
20. Giồng Bà Lưới
21. Giồng Chim
22. Ba Giồng
23. Giồng Xưởng
24. Giồng Chơn
25. Núi Đất Nhỏ (hay Núi Đất)
26. Khu Bao Đồng
Phân bố: chủ yếu trên các Giồng Đất Đỏ và số ít Giồng Cát trong địa phận xã Long Hòa (16 địa điểm), thị trấn Cần Thạnh (6 địa điểm), xã Lý Nhơn (3 địa điểm) và ở xã An Thới Đông có 1 địa điểm.
Hệ thống di tích khảo cổ học ở Cần Giờ - TP. Hồ Chí Minh trong bối cảnh tiền - sơ sử Miền Nam Việt Nam.
Cần Giờ thời tiền sử có nhiều mối liên hệ mật thiết với văn hóa Đồng Nai, bởi sông Đồng Nai là đường giao thông chính của Miền Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên. Mối quan hệ giữa văn hóa Giồng Phệt với văn hóa Sa Huỳnh ở Miền Trung Việt Nam mối quan hệ bằng đường biển.
Từ văn hóa Giồng Phệt đến văn hóa Óc Eo hay là giai đoạn tiền Óc Eo ở khu vực Cần Giờ mối quan hệ lịch đại. Mối quan hệ giao lưu rộng rãi của “Cảng Thị” Cần Giờ là một trong những yếu tố kích thích sự phát triển của văn hóa Đồng Nai thời tiền sử và góp phần quan trọng vào quá trình hình thành văn hóa Óc Eo từ những thế kỷ đầu công nguyên.

Cần Giờ còn có một không gian cảnh quan độc đáo là rừng ngập mặn, các di tích được phân bố tập trung ở khu vực Cần Thạnh, Long Hòa và Lý Nhơn, ở đó hàng ngày diễn ra mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa của dân cư với mức độ ngày càng nhanh, phong phú, đa dạng.
Các phương án bảo tồn, phát huy giá trị của hệ thống di tích KCH Huyện Cần Giờ cần phải đặt trong quy hoạch tổng thể khu vực Cần Giờ nói chung và khu bảo tồng sinh quyển nói riêng. Di tích gắn liền với cảnh quan môi trường. Hệ thống di tích khảo cổ phải hòa nhập với những quy hoạch bảo vệ Khu dự trữ Sinh quyển, hòa nhập với quy hoạch bảo tồn những di tích lịch sử - văn hóa thành một tổng thể hài hòa.
Với một hệ thống di tích khảo cổ của Cần Giờ tương đối nhiều cũng từ đó Bộ Văn hóa và Thông tin đã công nhận một di tích tiêu biểu cho hệ thống khảo cổ học Cần Giờ là di tích cấp Quốc gia: Di tích Khảo cổ học Giồng Cá Vồ vào ngày 13/4/2000.
(Thông tin bài viết và hình ảnh do Phòng Văn hóa - Thông tin cung cấp)

Không có nhận xét nào: